LCĐT - Những năm qua, được sự quan tâm của Nhà nước và sự vào cuộc của người dân, diện tích và chất lượng rừng của tỉnh không ngừng được nâng lên. Năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh đạt 56,07%, đứng thứ 11 toàn quốc. Để đạt được những kết quả trên, ngoài việc trồng và khoanh nuôi thêm rừng mới, việc bảo vệ diện tích rừng hiện có cũng rất quan trọng.
Mở đường trên diện tích rừng tự nhiên tại xã Cam Cọn (huyện Bảo Yên).
Một vấn đề lớn đang đặt ra là hơn 90.000 ha rừng tự nhiên, rừng phòng hộ do UBND các xã, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý vẫn chưa bố trí được kinh phí hỗ trợ bảo vệ theo đúng chính sách. Ông Nguyễn Quang Vĩnh, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Địa hình chia cắt lớn, diện tích rừng trải rộng, đan xen cả về loại rừng và chủ quản lý; xen kẹp với các khu dân cư, đất nông nghiệp, công nghiệp… và đa số diện tích rừng, đất lâm nghiệp chưa được quy chủ chính xác đã và đang gây khó khăn cho công tác quản lý, bảo vệ rừng. Cùng với đó, nhận thức về giá trị của rừng còn chưa đầy đủ nên chưa dành sự quan tâm đúng mức, tương xứng với giá trị của rừng. Những yếu tố trên đang tạo áp lực lớn đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên, rừng phòng hộ.
Theo quy định của Chính phủ, ngoài nguồn hỗ trợ của Trung ương, địa phương có trách nhiệm sử dụng nguồn thu từ bán cây đứng, thuế tài nguyên rừng, nguồn thu được để lại từ các nhà máy thủy điện và các nguồn thu khác để đảm bảo thực hiện chính sách bảo vệ, phát triển rừng tại địa phương. Tuy nhiên, Lào Cai là tỉnh nghèo nên trong những năm qua, ngân sách địa phương hỗ trợ bảo vệ rừng rất ít, chủ yếu là nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương. Theo quy định, Lào Cai cần hơn 70 tỷ đồng/năm để hỗ trợ công tác bảo vệ rừng, nhưng trong giai đoạn 2016 - 2020 tỉnh mới hỗ trợ bình quân được 30 tỷ đồng/năm để bảo vệ một phần diện tích rừng do các ban quản lý rừng phòng hộ, công ty lâm nghiệp được giao quản lý. Toàn bộ diện tích rừng tự nhiên do UBND cấp xã và các hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý hiện chưa được hỗ trợ kinh phí để bảo vệ rừng.
Diện tích rừng tự nhiên giao cho UBND cấp xã và hộ gia đình, cá nhân quản lý là hơn 95.000 ha, chiếm hơn 34% diện tích rừng của tỉnh thuộc đối tượng được hưởng chính sách bảo vệ. Đối với diện tích rừng đang giao cho UBND cấp xã quản lý, theo Quyết định 07/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng” thì ngân sách địa phương phải hỗ trợ bảo vệ. Tuy nhiên, giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh chưa cân đối được kinh phí hỗ trợ nên việc bảo vệ rừng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các xã không có tiền dịch vụ môi trường rừng hoặc tiền dịch vụ môi trường rừng ít. Mặt khác, đối với diện tích rừng tự nhiên trước đây đã giao cho các hộ gia đình, hiện đang đóng cửa rừng tự nhiên nên diện tích rừng này không được khai thác, hưởng lợi; kết hợp với việc không được hỗ trợ tiền bảo vệ rừng trong khi sức ép về kinh tế, phục vụ các nhu cầu đời sống hằng ngày của người dân tăng, đặc biệt thời gian gần đây do giá trị của cây quế tăng dẫn đến hiện tượng ở một số nơi người dân phát phá, vén rừng, luỗng rừng tự nhiên để trồng quế... Trong năm 2020, toàn tỉnh xảy ra hơn 70 vụ phá rừng, mặc dù các vụ vi phạm đã được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh nhưng cũng ảnh hưởng đến diện tích, chất lượng rừng.
Cũng theo ông Nguyễn Quang Vĩnh, để “lấp” khoảng trống trong công tác bảo vệ rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, cần có những giải pháp đồng bộ, đi vào những vấn đề thực tế đặt ra. Đó là đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân, vận động người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã trong xây dựng và tổ chức thực hiện phương án bảo vệ rừng và phát triển rừng tại địa phương; gắn trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã với kết quả công tác bảo vệ và phát triển rừng. Bố trí ngân sách nhà nước hỗ trợ bảo vệ diện tích rừng do UBND xã quản lý theo quy định và diện tích rừng tự nhiên đã giao cho các hộ gia đình, cá nhân để giảm bớt khó khăn cho chính quyền và Nhân dân, đồng thời triển khai các dự án, mô hình sinh kế, du lịch sinh thái… gắn với bảo vệ rừng để khai thác tối đa hiệu quả và giá trị của tài nguyên rừng.
Bên cạnh đó, thực hiện giao đất, giao rừng để giảm dần diện tích rừng do UBND cấp xã quản lý, tiến tới toàn bộ diện tích rừng và đất quy hoạch lâm nghiệp đều có chủ quản lý theo quy định. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của chủ rừng đối với diện tích rừng được giao; khuyến khích việc giám sát chéo công tác bảo vệ rừng trong cộng đồng dân cư. Rà soát, kiện toàn, tập huấn nâng cao năng lực cho các tổ xung kích bảo vệ rừng cấp xã, tổ quần chúng bảo vệ rừng thôn, bản; thí điểm các mô hình bảo vệ rừng mới như thành lập, giao khoán bảo vệ cho các tổ bảo vệ rừng chuyên trách với nòng cốt là cá nhân, thành viên của cộng đồng dân cư để thực hiện công tác bảo vệ rừng.