Quả thật, đứng trên mỏm đá Hầu Thào, nhìn qua dải lụa trắng suối Mường Hoa những nếp ruộng bậc thang giống như vân tay của đất mẹ Hoàng Liên hùng vĩ cứ xếp chồng lên nhau, cao ngút tận Séo Mý Tỷ. Cả vùng Tả Van như một vòng cung lớn, chở che bản làng trù phú, người dân hồn hậu, dòng suối Mường Hoa xanh mát tự bao đời.
Vượt qua suối Mường Hoa, rẽ sương mù đặc quánh như từng nắm bông trắng tinh khôi từ trên cao rắc xuống thung lũng Tả Van, tuyến đường bê tông mới mở rộng, nâng cấp mấy năm nay như sợi chỉ lanh màu bạc sáng dẫn chúng tôi lên Séo Mý Tỷ đại ngàn xanh sẫm. Bắt đầu từ bản Tả Van Mông, vòng cung Tả Van dựng dốc cao gập gềnh, “sợi chỉ lanh màu” dẫn lối theo hình zích zắc, cứ thế hút ngược lên cao, sương trắng loãng dần, như màn voan mỏng bao phủ miền cổ tích. Có cảm giác như lạc vào một thế giới khác, hơi thở nhẹ như mây, gió lồng lộng trên đầu, bất ngờ hiện ra trước mặt hồ thủy điện Séo Chong Hô, nằm lọt giữa Séo Mý Tỷ đại ngàn, hoang sơ mà hùng vĩ.
Đó, viên ngọc bích Séo Mý Tỷ treo lưng chừng trời, ẩn chứa biết bao câu chuyện về đất và người nơi đây. Bên ấm trà rừng chát nóng mà ngọt hậu nơi cổ họng, già làng Giàng A Khoa, nguyên Phó Chủ tịch UBND xã Tả Van hồi tưởng: Séo Mý Tỷ theo tiếng địa phương là “hạt gạo nhỏ”, cái tên sao mà thân thương nhưng cũng thật kỳ bí, gây bao tò mò! Hóa ra, nó khắc ghi trong tâm khảm những người Mông đầu tiên từ phương Bắc di cư đến đây lập nghiệp về vùng đất lạnh giá, thừa thãi gió sương, cách biệt với bên ngoài như “ốc đảo”, bởi trập trùng núi cao đá dựng, gian khó không sao kể xiết. Người Mông nổi tiếng can trường và sáng tạo, dùng đất làm nhà trình tường ngăn giá lạnh, che gió sương, khai ruộng bậc thang từ những mạch nước nhỏ ngang sườn núi, dưới thung sâu để làm ra hạt gạo nuôi người, giữ rừng và nguồn nước quý giá. Khí hậu rét lạnh nên chỉ cấy được một vụ. Tháng ba ngày tám giáp hạt dài như cơn gió hoang lạnh trên núi, cái đói ập tới, người Mông dòng họ Giàng nơi đây khôn khéo tìm ra cây xèo nhỏ nhoi mà sức sống mạnh mẽ, không chê đất cằn, uống gió ngậm sương, vượt lên giá rét, chắt chiu tinh túy của đất trời mà kết hạt nhỏ nuôi người. Người Mông nhờ cây xèo ấy mà vượt qua cái đói mùa giáp hạt, bám đất bám rừng mà lập bản, cái tên Séo Mý Tỷ như là ân tình của người Mông nơi đây với đất đai, với “hạt gạo nhỏ” biết bao ơn nghĩa lúc khởi nguồn mở đất, lập làng thủa ban đầu…!
Bây giờ, tràn đầy thung lũng trồng xèo năm xưa ấy là hồ thủy điện xanh mênh mông ở nơi cao nhất Việt Nam, gần 1.600 m so với mực nước biển, đồng thời nằm trong top những hồ nước cao thứ 2 Đông Dương. Giữa trưa, những tia nắng mặt trời mạnh nhất xuyên qua tầng mây và sương mù vần vũ rọi xuống mặt hồ xanh thẳm, hắt lên không trung lấp lánh ánh bạc, đẹp như huyền thoại. Già làng Giàng A Khoa bảo, mạch nước từ lõi Vườn Quốc gia Hoàng Liên chảy ra từ đầu nguồn Na Háng thì chia làm hai, một nhánh chảy vào hồ Séo Mý Tỷ, còn một nhánh chảy ngược (do địa hình thấp) vào Dền Thàng, rồi đổ ra phía Bản Hồ. Sao mà nước hồ xanh thẳm sâu, trong văn vắt đến vậy? Có phải do nguồn nước sinh thủy từ Mẹ rừng Hoàng Liên có đỉnh Phan Xi Păng cao nhất Việt Nam, được mệnh danh “nóc nhà Đông Dương” mà nước ở đây quanh năm một màu xanh ngọc bích, phản chiếu nền trời và soi bóng cả dãy Hoàng Liên sừng sững, tạo nên bức tranh thủy mặc đẹp đến mê hoặc như thế? Mọi thời điểm trong ngày hồ Séo Mý Tỷ đều đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là vào thời khắc sáng sớm, khi làn sương mờ giăng phủ trắng xóa trên mặt hồ, lúc bình minh những tia nắng đầu tiên soi chiếu xuống mặt nước tạo khung cảnh huyền ảo hoặc khi chiều tàn, hoàng hôn buông xuống, chỉ còn vệt nắng cuối cùng vương vấn trên mặt hồ lung linh như tấm gương trời khổng lồ hắt sáng lên không trung. Ngắm khung cảnh tráng lệ ấy, khó có thể nghĩ rằng, ở dưới đáy hồ kia, cách đây không lâu chính là bản, là làng của hơn 67 hộ người Mông đầu tiên khai thiên, phá thạch lập ra bản “hạt gạo nhỏ” để trường tồn cùng lịch sử nơi này.
Sải những bước dài, vững chãi của người lính rừng đã gắn bó với đại ngàn Hoàng Liên gần 20 năm, Trạm trưởng Trạm kiểm lâm số 4 Séo Mý Tỷ Lê Tiến Dũng đưa tôi lên chốt trực của tổ bảo vệ rừng cộng đồng tìm gặp “bố Bâu”, tức Hầu A Bâu, ở Dền Thàng, bản người Mông nằm sâu nhất trong vùng lõi rừng Hoàng Liên. Sáu mươi hai tuổi nhưng trông bố Bâu như cây táu mật giữa rừng, rắn rỏi và hoạt bát. Bố Bâu là Tổ trưởng Tổ bảo vệ rừng gồm 15 người dân của Dền Thàng, bao gồm cả bí thư chi bộ, trưởng bản, công an viên và những người khỏe mạnh, thông thạo địa hình của núi rừng Hoàng Liên. Đều đặn mỗi tháng leo rừng 3 chuyến, mỗi chuyến từ 2 - 4 ngày, đó là công việc của bố Bâu và tổ bảo vệ rừng, làm sao để hơn 700 ha rừng đặc dụng được coi sóc, bảo vệ như vườn cây trái của chính nhà mình. “Mình làm tổ trưởng thì phải gương mẫu, nhận việc khó, đi chỗ xa; khen thưởng hay xử phạt phải công minh thì mới có cái uy và chữ tín với cộng đồng. Mỗi năm kiện toàn một lần đấy, ai không tham gia tuần rừng đầy đủ, có dấu hiệu vi phạm sẽ bị thay! ” - bố Bâu cười hiền.
Tất cả các hoạt động tuần tra, phòng, chống cháy rừng đều được xây dựng kế hoạch rõ ràng, được chính quyền và Vườn Quốc gia Hoàng Liên phê duyệt.
Bố Bâu nhớ nhất những chuyến tuần rừng xa mấy chục cây số, lên tận đỉnh Nam Cang cao 2.881 m, giáp huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, đi mất mấy ngày đường mới đến nơi, anh em phải ăn gió nằm sương trong rừng để bảo vệ rừng gỗ quý, giữ màu xanh đại ngàn Hoàng Liên hùng vĩ, giữ nguồn sinh thủy cho hồ thủy điện xanh và sáng. “Cũng nhờ có chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng nên anh em và bà con thôn Dền Thàng như là tai mắt của chúng tôi, đồng lòng hợp sức chung tay giữ màu xanh Vườn Quốc gia Hoàng Liên bền vững” - Trạm trưởng kiểm lâm Lê Tiến Dũng bộc bạch.
Nhận khoán bảo vệ hơn 700 ha rừng đặc dụng, hằng năm bà con có trong tay hơn 500 triệu đồng từ các nhà máy thủy điện, hộ kinh doanh du lịch có sử dụng nguồn nước từ rừng sinh ra. Lợi ích ấy rất rõ, mọi người đều được hưởng thụ nên càng có trách nhiệm giữ nguồn nước bằng cách trồng và bảo vệ rừng để hồ Séo Mý Tỷ thêm xanh, suối Mường Hoa không bao giờ vơi cạn.
Hôm chúng tôi đến, gặp Giám đốc Nhà máy thủy điện Séo Chong Hô Nguyễn Hồng Quang, anh cho biết: Công trình hồ thủy điện nhân tạo xuất hiện giống như một cuộc cách mạng. Đập đá bê tông bản mặt dài 129 m, có cao trình đỉnh đập 1.563 m, với hàng triệu mét khối bê tông, hàng nghìn tấn sắt thép sừng sững chắn ngang, sau gần một tháng nước mới dâng đầy, tạo thành hồ trên núi, ở độ cao hơn 1.600 m so với mực nước biển. Hồ thủy điện Séo Mý Tỷ có sức chứa 7 triệu m3 nước, sâu 40 m, để cấp “nguồn vàng trắng” chạy 3 tổ máy công suất 30 MW, phát lên lưới điện quốc gia trên 100 triệu kWh mỗi năm, đóng góp cho ngân sách địa phương gần 30 tỷ đồng một năm.
Ánh sáng điện được đưa về xóa đèn dầu đỏ quạch, khói nhọ mặt người bao năm ở vùng lõi rừng Hoàng Liên hùng vĩ. Công ty TNHH Điện lực Việt - Trung còn hỗ trợ bà con nơi đây hàng chục tỷ đồng xây khu tái định cư, mở đường giao thông, xây trường học. Với đồng bào nơi đây, đó là một cuộc đổi đời, mở ra cơ hội thoát nghèo, vươn lên làm giàu và hội nhập cộng đồng. Hơn 130 hộ ở Séo Mý Tỷ và Dền Thàng đã biết cách tận dụng nguồn nước để nuôi cá hồi, cá tầm ở trong rừng và cá lồng trên lòng hồ, mỗi năm đưa ra thị trường khoảng 200 tấn cá chất lượng cao, đem về hơn 40 tỷ đồng. Tận dụng thêm cảnh quan hiếm có để phát triển du lịch, nhiều gia đình ở đây khấm khá hơn. Du khách tới cắm trại, trải nghiệm văn hóa bản địa, từ đó người dân ở đây cũng có đồng ra, đồng vào. Thị xã Sa Pa đang khuyến khích bà con nơi đây phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng của người Mông để thu hút du khách, tăng thu nhập…
Đi giữa đất trời Séo Mý Tỷ hôm nay cảm nhận rõ sức sống tươi mới ở nơi “hạt gạo nhỏ” đang bung mở như chàng hoàng tử miền sơn cước đang vươn vai, sải bước rộng dài cùng bè bạn muôn phương.
Trình bày: Khánh Ly