Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Giữ lửa nghề rèn

Giữ lửa nghề rèn

Cuộc sống đổi thay, nghề rèn đúc ở Bắc Hà cũng dần mai một, nhưng với nhiều người thì khát vọng, quyết tâm giữ lửa nghề vẫn thôi thúc từng ngày.

Đã từng có một thời, hầu hết những nông cụ sản xuất và các dụng cụ phục vụ đời sống của người dân cao nguyên trắng Bắc Hà được làm từ bàn tay của những người thợ rèn người Mông bản địa. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những nông cụ truyền thống ấy dần dần được thay thế bằng những thứ ra đời từ máy móc, đẹp và rẻ, nhưng trong ký ức của nhiều người vẫn không quên những dụng cụ được làm từ bàn tay khéo léo của người Mông.

Theo các vị cao niên ở Bắc Hà kể lại, nghề rèn đúc nơi đây có hàng trăm năm tuổi, tập trung vào 3 họ lớn của người Mông là họ Sùng, họ Thào và họ Vàng. Xưa kia, mỗi dòng họ chuyên tác và nổi danh nhờ một số sản phẩm tiêu biểu, như họ Sùng chuyên đúc lưỡi cày, răng bừa, cuốc; họ Thào thì nổi tiếng nhờ rèn dao, kéo… Vào thời hoàng kim, nhà làm nghề ngày đêm đỏ lửa bếp rèn, người làm rèn không hết việc. Tuy nhiên, truyền thống của đồng bào Mông chỉ truyền nghề cho con cháu trong dòng họ, trong khi giờ đây các mặt hàng kim khí được sản xuất hàng loạt từ dây chuyền công nghiệp với mẫu mã đẹp, giá rẻ khiến dòng sản phẩm rèn thủ công mất dần vị thế. Những lò rèn đúc ở Bắc Hà thưa dần, nhiều dòng họ, gia đình không thường xuyên nổi lửa, thậm chí bỏ nghề.

Giữ lửa nghề(1).png

Để hiểu hơn về làng nghề đã có phần mai một, chúng tôi tìm về xã Bản Phố, giờ đây chỉ còn vài nhà làm rèn. Địa chỉ chúng tôi tìm tới là gia đình ông Sùng Seo Nhà, sinh năm 1952 ở thôn Bản Phố 2C - gia đình đúc lưỡi cày lâu đời hàng đầu của xã. Ông Nhà là bậc trưởng lão của nghề rèn ở Bản Phố và là truyền nhân đời thứ 3 nối nghiệp cha, ông. Trong câu chuyện, ông Nhà cho biết, những năm tháng tuổi thơ của ông gắn liền với tiếng đe, tiếng búa chát chúa, khi ông tròn 12 tuổi thì được bố truyền nghề.

Thời điểm đó, cậu bé Nhà chỉ cao ngang lưng thân cây ngô trổ bắp, sáng đi học ở trường, tối về nhà học rèn đúc lưỡi cày. Cực nhọc, gian khó nhưng cậu bé Nhà vẫn yêu nghề lắm, không kêu ca, phàn nàn bao giờ. Cuộc sống đưa đẩy, khi trưởng thành, Sùng Seo Nhà lại lựa chọn công tác trong ngành công an, chỉ đến khi nghỉ, ông mới có cơ hội dành thời gian cho nghề truyền thống của ông cha. Suốt bao năm đau đáu, ngọn lửa nghề rèn vốn âm ỉ, bập bùng nay có dịp bùng cháy.

Thêm nội dung văn bản.png

Lò rèn của ông Nhà không cầu kỳ, chỉ có một ụ lò đất, vài cục đe và một cái bễ. Cái bễ và lò đốt là trung tâm của lò rèn. Cái bễ thổi như cái bơm khổng lồ được khoét ra từ thân cây gỗ với đường kính khoảng 50 cm. Pít tông là miếng gỗ tròn như cái thớt được gắn lông gà chung quanh để kín gió và dễ dàng dao động trơn nhẹ trong lòng thân gỗ.

Theo ông Nhà, nghề rèn đúc của đồng bào Mông ở Bản Phố nổi danh nhất là sản phẩm lưỡi cày. Công đoạn làm lưỡi cày rất công phu, các khâu đều làm thủ công. Để làm lưỡi cày cần có đất sét trắng tạo khuôn, loại đất này chỉ có ở xã Bản Liền, cách Bản Phố hơn 20 km. Khâu làm đất cầu kỳ nhất là sàng, rây mịn bằng tấm lưới sắt mắt nhỏ để loại bỏ hết các hạt sạn, sau đó trộn với bột than rồi đắp vào khuôn gỗ, lớp đất được phết dày khoảng 1 cm với độ ẩm vừa phải. Công đoạn này được làm rất tỉ mỉ, có khi kéo dài cả tuần. Mỗi bộ khuôn đúc hoàn chỉnh nặng khoảng 60 đến 70 kg, sau khi đổ 5 - 6 kg phôi gang nóng chảy vào khuôn, ông Nhà sẽ thu được một lưỡi cày có độ cong đặc trưng của đồng bào Mông vốn sử dụng nhiều trong cày nương, đồi.

Giữ lửa nghề(2).png

Dù thị trường đã ít dùng sản phẩm lưỡi cày của đồng bào Mông và dù không đốt lò thường xuyên nhưng sản phẩm của gia đình làm ra vẫn bán hết, thậm chí khách đặt hàng còn phải chờ đợi khá lâu. Nếu dùng máy móc hiện đại vào làm rèn, năng suất cao hơn nhưng chất lượng sản phẩm không thể như làm thủ công, sản phẩm nếu bảo quản tốt, độ bền có khi lên tới chục năm.

Ông Sùng Seo Nhà

Ngoài lưỡi cày, ông Nhà còn rèn dao. Sản phẩm tốt, nhiều người đặt mua nên có thời điểm ông phải làm việc từ hừng đông đến chiều tối. Kinh nghiệm của ông Nhà để làm ra một con dao tốt, thợ cả và thợ phụ phải có sự phối hợp nhịp nhàng, lực búa giáng xuống đe thép phải đều, số nhịp phù hợp. Đồng bào Mông ở Bắc Hà dùng than củi, không dùng than đá khi rèn đúc, loại đặc biệt, có thể cho nhiệt lượng lên đến trên 1.000 độ C.

Thêm nội dung văn bản(2).png

Cuộc sống đổi thay, mở ra nhiều con đường mưu sinh và vì thế, những người theo nghề rèn đúc ở Bắc Hà cũng ít dần. Với những nghệ nhân tâm huyết như ông Nhà thì khát vọng, quyết tâm giữ lửa nghề vẫn cứ thôi thúc từng ngày. “Nghề này không giúp gia đình trở nên khá giả hoặc giàu có nhưng đây là nghề của tổ tiên nên chúng tôi phải cố gắng giữ gìn. Một lưỡi cày có giá 130 nghìn đồng, chi phí nguyên - nhiên liệu đầu vào khoảng 80 nghìn đồng, tiền công chỉ 50 nghìn đồng, với lao động chính thì không thể chọn nghề này để mưu sinh” - ông Nhà bộc bạch.

Lò rèn ngày nào cũng vang tiếng búa, tiếng đe của ông Nhà giờ đã chuyển về phía sau nhà, vận động mãi cuối cùng con trai út của ông cũng nối nghiệp cha. Người trẻ nối nghiệp dù yêu nghề truyền thống nhưng vẫn phải tìm thêm công việc chính khác để nuôi sống bản thân, gia đình, lửa nghề rèn chỉ đỏ mỗi tuần một lần để giữ nghề, kỳ vọng một ngày nghề rèn đúc của cha ông trở lại huy hoàng như xưa…

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường tỉnh Hoà Bình (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự tôn vinh, ghi nhận và là niềm tự hào của người Mường, động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Giữa lòng Cao nguyên đá hùng vĩ có một câu chuyện về văn hóa bản địa và hành trình vươn lên mạnh mẽ của những người phụ nữ dân tộc Mông. Từ sợi lanh truyền thống, họ đã và đang bền bỉ dệt nên sự bình đẳng, nâng tầm vị thế của mình trong cộng đồng.

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

[Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Làng nghề trống Đọi Tam ở xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là làng nghề có lịch sử phát triển hơn 1.000 năm và là làng nghề nổi tiếng với sản phẩm trống truyền thống. Ngoài việc giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo, làng nghề còn linh hoạt đổi mới để đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người tiêu dùng.

Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Sông Hồng – Hành trình di sản Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Cùng với những di tích khảo cổ, những lịch sử - văn hóa mang nhiều giá trị bên sông Hồng, đi đến những vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tham quan, trải nghiệm không gian văn hóa của nhiều làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm tuổi ven sông Hồng, tạo nên nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước của cư dân người Việt.

fb yt zl tw