Suốt chiều dài lịch sử, tre nứa đã trở thành người bạn thân thiết trong đời sống đồng bào Khơ Mú ở phường Nghĩa Lộ (tỉnh Yên Bái trước đây, nay thuộc tỉnh Lào Cai). Qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân, người thợ, tre nứa được thổi hồn thành nong, nia, giỏ, gùi, sọt, ghế… Các vật dụng gắn bó với lao động, sinh hoạt hằng ngày và cả tín ngưỡng, tâm linh. Giữa nhịp sống hiện đại, người Khơ Mú vẫn lặng lẽ giữ nghề truyền thống - gìn giữ cội nguồn.
Một ngày cuối tuần tháng Bảy, trời hửng nắng sau cơn mưa đêm, chúng tôi men theo đường bê tông nhỏ đến tổ dân phố Nậm Tộc. Những nếp nhà sàn của người Khơ Mú nép mình dưới tán cây xanh thẫm. Từ xa, đã nghe vẳng tiếng dao róc tre, tiếng lạt nứa va vào nhau khe khẽ.
Trong căn nhà sàn giữa xóm nhỏ, ông Lèo Văn Piềng ngồi bên bó nứa chẻ sẵn, tay thoăn thoắt luồn lạt. Thấy khách đến, ông Piềng hồ hởi đứng dậy, gương mặt rám nắng bừng lên niềm vui. Bàn tay vẫn còn vương bụi tre, ông mời chúng tôi vào nhà. Dọc vách nhà treo đủ loại sản phẩm đan lát được xếp gọn gàng.
Rót chén trà nóng mời khách, ông Piềng chỉ tay: “Đây là dần sàng thóc, kia là nia sảy gạo, còn đây cót quây lúa, sọt đựng đồ đi rừng, “eng” gùi lúa, “bem” đựng quần áo, ghế tre, mâm tre… Tất cả đều tự tay tôi đan”.

Nói rồi, ông Piềng nhẹ nhàng nâng sản phẩm lên, say sưa giới thiệu ý nghĩa các chi tiết, cách đan. Mỗi món đồ mang một dấu ấn riêng, ẩn chứa câu chuyện của núi rừng, của đôi bàn tay lao động miệt mài và sự sáng tạo của con người. Qua lời kể giản dị ấy, chúng tôi như thấy hiện lên một kho tàng văn hóa được chắt chiu, gìn giữ của bao thế hệ.
Ông Piềng bảo: “Đối với người Khơ Mú, đan lát là kỹ năng bắt buộc của nam giới. Trẻ em trai học nghề từ bố, từ ông cách chẻ lạt, chẻ nan, rồi tập đan nong, nia, gùi, sọt. Lớn lên, ai cũng phải biết đan phục vụ cuộc sống gia đình. Người đàn ông nào đan giỏi thì càng được mọi người quý trọng”. Nói đến đây, ông ngừng lại, ánh mắt xa xăm như nhớ lại cả một đời gắn bó với nghề.

Như để minh chứng cho lời mình vừa nói, chọn những nan nứa mềm, đều tăm tắp, ông bắt đầu đan mẫu cho chúng tôi xem. Đôi tay gân guốc luồn lạt, đan lên, đan xuống, ngay ngắn. Chỉ trong chốc lát, chiếc nia nhỏ đã hiện rõ hình hài.
Vừa làm ông Piềng vừa giảng giải: “Đan nia phải chắc tay, các nan phải đều, khoảng cách không quá rộng cũng không được sít quá. Nếu nan lỏng tay, khi phơi thóc gạo sẽ rơi qua, còn sít quá thì phơi lâu khô. Hiện tôi vẫn duy trì kiếm sống bằng nghề đan lát, mỗi sản phẩm có giá 100 - 500 nghìn đồng. Một tháng cũng bán được vài triệu đồng, vừa có thêm thu nhập vừa duy trì nghề của tổ tiên không bị mai một”.
Để tìm hiểu sâu hơn về nghề đan lát của người Khơ Mú, chúng tôi tìm đến nhà ông Vì Văn Sang - nghệ nhân ưu tú người Khơ Mú đầu tiên của phường Nghĩa Lộ, người được bà con trong vùng kính trọng bởi đôi tay khéo léo và tấm lòng đau đáu giữ nghề truyền thống.
Bước chân vào nhà ông Sang, chúng tôi ai nấy đều trầm trồ trước những sản phẩm đan lát tinh xảo bày biện trong nhà.
Ông Sang tâm sự: “Nghề đan lát của người Khơ Mú có từ khi dựng bản, lập làng. Đan lát không chỉ phục vụ đời sống hằng ngày mà còn là nét văn hóa. Trong lễ hội, tết cổ truyền, các vật dụng đan lát tre nứa được dùng đựng xôi, rượu, thịt, cá… dâng cúng tổ tiên. Không có những vật dụng ấy, lễ cúng không còn thiêng...”.

Việc đi rừng lấy nguyên liệu về đan lát hầu như diễn ra quanh năm nhưng không phải ngày nào cũng lên rừng chặt tre, nứa hay mây mà thường chọn một số ngày thích hợp.
Người Khơ Mú xưa truyền lại kinh nghiệm, khi đi lấy tre, nứa, giang, mây phải đi vào ngày cuối tháng âm lịch. Nên lấy tre, nứa vào các tháng mùa Đông từ tháng 10 - 12 trong năm hoặc ra tới tháng 1 năm sau, tránh bị mọt, bởi người Khơ Mú quan niệm mùa Đông lạnh giá, lúc này sâu mọt đang ở dạng trứng trong kén tổ. Đặc biệt, khi chồng vào rừng chặt tre nứa, người vợ ở nhà kiêng gội đầu, kiêng đóng cửa… Nếu cả nhóm nữ cùng vào rừng lấy mây thì trên đường đi không được nói tục, chửi bậy, nhất là nói những câu có tính chất phỉ báng tới ma rừng, ma núi.
Miên man trong câu chuyện về những phong tục gắn với nghề đan lát, giọng ông Sang bỗng trầm lại, ánh mắt thoáng buồn: “Lớp trẻ người Khơ Mú giờ ít học đan vì bận đi làm thuê hoặc lên nương suốt ngày. Hồi xưa, con trai từ 9 - 10 tuổi đã theo cha, ông học đan. Tôi cũng thế, hồi ấy chỉ ngồi bên cạnh cắt lạt, nghe tiếng cha dạy mà nhớ. Đến 15 - 16 tuổi, đã biết đan nia, đan sọt. Nhưng vì đầu ra vẫn còn hạn chế, giá bán không cao nên lớp trẻ chưa mặn mà học nghề”.

Phường Nghĩa Lộ có gần 300 hộ dân tộc Khơ Mú. Trước đây, đan lát là công việc quen thuộc của hầu hết các gia đình, nhưng hiện tại chỉ còn lại vài hộ duy trì nghề. Vì vậy, để bảo tồn và phát huy nghề thủ công của người Khơ Mú, chính quyền địa phương đã lồng ghép nghề đan lát vào sinh hoạt văn hóa cộng đồng; tổ chức hội thi, hội chợ, mời nghệ nhân biểu diễn, hướng dẫn khách du lịch trải nghiệm. Đó là cách để giữ “hồn” tre nứa của người Khơ Mú, mở hướng sinh kế bền vững cho người dân.
Trò chuyện với chúng tôi, đồng chí Nguyễn Hải Minh, cán bộ Phòng Văn hóa - Xã hội, phường Nghĩa Lộ cho biết: “Chính quyền địa phương đã tuyên truyền, vận động nghệ nhân, người cao tuổi có tay nghề hướng dẫn thế hệ trẻ, đưa sản phẩm đan lát truyền thống tham gia hội chợ, trưng bày ở các sự kiện lễ hội du lịch của tỉnh. Nếu tìm được hướng tiêu thụ ổn định, sẽ giúp bà con có thêm thu nhập, giữ được nghề truyền thống, nét đẹp văn hóa riêng có của người Khơ Mú”.
Tạm biệt tổ dân phố Nậm Tộc khi những tia nắng cuối ngày xiên qua phên nứa, hắt lên từng nan tre. Tin rằng, khi những bàn tay khéo léo vẫn miệt mài bên bó tre, bó nứa, tiếng dao chẻ lạt còn vang lên mỗi sớm, thì giá trị văn hóa Khơ Mú vẫn được gìn giữ.