Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Người Khơ Mú giữ "hồn" tre nứa

Người Khơ Mú giữ "hồn" tre nứa

0:00 / 0:00
0:00

Suốt chiều dài lịch sử, tre nứa đã trở thành người bạn thân thiết trong đời sống đồng bào Khơ Mú ở phường Nghĩa Lộ (tỉnh Yên Bái trước đây, nay thuộc tỉnh Lào Cai). Qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân, người thợ, tre nứa được thổi hồn thành nong, nia, giỏ, gùi, sọt, ghế… Các vật dụng gắn bó với lao động, sinh hoạt hằng ngày và cả tín ngưỡng, tâm linh. Giữa nhịp sống hiện đại, người Khơ Mú vẫn lặng lẽ giữ nghề truyền thống - gìn giữ cội nguồn.

Một ngày cuối tuần tháng Bảy, trời hửng nắng sau cơn mưa đêm, chúng tôi men theo đường bê tông nhỏ đến tổ dân phố Nậm Tộc. Những nếp nhà sàn của người Khơ Mú nép mình dưới tán cây xanh thẫm. Từ xa, đã nghe vẳng tiếng dao róc tre, tiếng lạt nứa va vào nhau khe khẽ.

Trong căn nhà sàn giữa xóm nhỏ, ông Lèo Văn Piềng ngồi bên bó nứa chẻ sẵn, tay thoăn thoắt luồn lạt. Thấy khách đến, ông Piềng hồ hởi đứng dậy, gương mặt rám nắng bừng lên niềm vui. Bàn tay vẫn còn vương bụi tre, ông mời chúng tôi vào nhà. Dọc vách nhà treo đủ loại sản phẩm đan lát được xếp gọn gàng.

Rót chén trà nóng mời khách, ông Piềng chỉ tay: “Đây là dần sàng thóc, kia là nia sảy gạo, còn đây cót quây lúa, sọt đựng đồ đi rừng, “eng” gùi lúa, “bem” đựng quần áo, ghế tre, mâm tre… Tất cả đều tự tay tôi đan”.

green-and-white-minimalist-modern-the-green-economy-presentation-1920-x-1080-px-7.jpg

Nói rồi, ông Piềng nhẹ nhàng nâng sản phẩm lên, say sưa giới thiệu ý nghĩa các chi tiết, cách đan. Mỗi món đồ mang một dấu ấn riêng, ẩn chứa câu chuyện của núi rừng, của đôi bàn tay lao động miệt mài và sự sáng tạo của con người. Qua lời kể giản dị ấy, chúng tôi như thấy hiện lên một kho tàng văn hóa được chắt chiu, gìn giữ của bao thế hệ.

Ông Piềng bảo: “Đối với người Khơ Mú, đan lát là kỹ năng bắt buộc của nam giới. Trẻ em trai học nghề từ bố, từ ông cách chẻ lạt, chẻ nan, rồi tập đan nong, nia, gùi, sọt. Lớn lên, ai cũng phải biết đan phục vụ cuộc sống gia đình. Người đàn ông nào đan giỏi thì càng được mọi người quý trọng”. Nói đến đây, ông ngừng lại, ánh mắt xa xăm như nhớ lại cả một đời gắn bó với nghề.

green-and-white-minimalist-modern-the-green-economy-presentation-1920-x-1080-px-4.jpg

Như để minh chứng cho lời mình vừa nói, chọn những nan nứa mềm, đều tăm tắp, ông bắt đầu đan mẫu cho chúng tôi xem. Đôi tay gân guốc luồn lạt, đan lên, đan xuống, ngay ngắn. Chỉ trong chốc lát, chiếc nia nhỏ đã hiện rõ hình hài.

Vừa làm ông Piềng vừa giảng giải: “Đan nia phải chắc tay, các nan phải đều, khoảng cách không quá rộng cũng không được sít quá. Nếu nan lỏng tay, khi phơi thóc gạo sẽ rơi qua, còn sít quá thì phơi lâu khô. Hiện tôi vẫn duy trì kiếm sống bằng nghề đan lát, mỗi sản phẩm có giá 100 - 500 nghìn đồng. Một tháng cũng bán được vài triệu đồng, vừa có thêm thu nhập vừa duy trì nghề của tổ tiên không bị mai một”.

Để tìm hiểu sâu hơn về nghề đan lát của người Khơ Mú, chúng tôi tìm đến nhà ông Vì Văn Sang - nghệ nhân ưu tú người Khơ Mú đầu tiên của phường Nghĩa Lộ, người được bà con trong vùng kính trọng bởi đôi tay khéo léo và tấm lòng đau đáu giữ nghề truyền thống.

Bước chân vào nhà ông Sang, chúng tôi ai nấy đều trầm trồ trước những sản phẩm đan lát tinh xảo bày biện trong nhà.

Ông Sang tâm sự: “Nghề đan lát của người Khơ Mú có từ khi dựng bản, lập làng. Đan lát không chỉ phục vụ đời sống hằng ngày mà còn là nét văn hóa. Trong lễ hội, tết cổ truyền, các vật dụng đan lát tre nứa được dùng đựng xôi, rượu, thịt, cá… dâng cúng tổ tiên. Không có những vật dụng ấy, lễ cúng không còn thiêng...”.

green-and-white-minimalist-modern-the-green-economy-presentation-1920-x-1080-px-2.png

Việc đi rừng lấy nguyên liệu về đan lát hầu như diễn ra quanh năm nhưng không phải ngày nào cũng lên rừng chặt tre, nứa hay mây mà thường chọn một số ngày thích hợp.

Người Khơ Mú xưa truyền lại kinh nghiệm, khi đi lấy tre, nứa, giang, mây phải đi vào ngày cuối tháng âm lịch. Nên lấy tre, nứa vào các tháng mùa Đông từ tháng 10 - 12 trong năm hoặc ra tới tháng 1 năm sau, tránh bị mọt, bởi người Khơ Mú quan niệm mùa Đông lạnh giá, lúc này sâu mọt đang ở dạng trứng trong kén tổ. Đặc biệt, khi chồng vào rừng chặt tre nứa, người vợ ở nhà kiêng gội đầu, kiêng đóng cửa… Nếu cả nhóm nữ cùng vào rừng lấy mây thì trên đường đi không được nói tục, chửi bậy, nhất là nói những câu có tính chất phỉ báng tới ma rừng, ma núi.

Miên man trong câu chuyện về những phong tục gắn với nghề đan lát, giọng ông Sang bỗng trầm lại, ánh mắt thoáng buồn: “Lớp trẻ người Khơ Mú giờ ít học đan vì bận đi làm thuê hoặc lên nương suốt ngày. Hồi xưa, con trai từ 9 - 10 tuổi đã theo cha, ông học đan. Tôi cũng thế, hồi ấy chỉ ngồi bên cạnh cắt lạt, nghe tiếng cha dạy mà nhớ. Đến 15 - 16 tuổi, đã biết đan nia, đan sọt. Nhưng vì đầu ra vẫn còn hạn chế, giá bán không cao nên lớp trẻ chưa mặn mà học nghề”.

20211026-155824.jpg
Các vật dụng bằng tre nứa của người Khơ Mú gắn bó với lao động, sinh hoạt hằng ngày và cả tín ngưỡng, tâm linh.

Phường Nghĩa Lộ có gần 300 hộ dân tộc Khơ Mú. Trước đây, đan lát là công việc quen thuộc của hầu hết các gia đình, nhưng hiện tại chỉ còn lại vài hộ duy trì nghề. Vì vậy, để bảo tồn và phát huy nghề thủ công của người Khơ Mú, chính quyền địa phương đã lồng ghép nghề đan lát vào sinh hoạt văn hóa cộng đồng; tổ chức hội thi, hội chợ, mời nghệ nhân biểu diễn, hướng dẫn khách du lịch trải nghiệm. Đó là cách để giữ “hồn” tre nứa của người Khơ Mú, mở hướng sinh kế bền vững cho người dân.

Trò chuyện với chúng tôi, đồng chí Nguyễn Hải Minh, cán bộ Phòng Văn hóa - Xã hội, phường Nghĩa Lộ cho biết: “Chính quyền địa phương đã tuyên truyền, vận động nghệ nhân, người cao tuổi có tay nghề hướng dẫn thế hệ trẻ, đưa sản phẩm đan lát truyền thống tham gia hội chợ, trưng bày ở các sự kiện lễ hội du lịch của tỉnh. Nếu tìm được hướng tiêu thụ ổn định, sẽ giúp bà con có thêm thu nhập, giữ được nghề truyền thống, nét đẹp văn hóa riêng có của người Khơ Mú”.

Tạm biệt tổ dân phố Nậm Tộc khi những tia nắng cuối ngày xiên qua phên nứa, hắt lên từng nan tre. Tin rằng, khi những bàn tay khéo léo vẫn miệt mài bên bó tre, bó nứa, tiếng dao chẻ lạt còn vang lên mỗi sớm, thì giá trị văn hóa Khơ Mú vẫn được gìn giữ.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

[Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Làng nghề trống Đọi Tam ở xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là làng nghề có lịch sử phát triển hơn 1.000 năm và là làng nghề nổi tiếng với sản phẩm trống truyền thống. Ngoài việc giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo, làng nghề còn linh hoạt đổi mới để đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người tiêu dùng.

Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Sông Hồng – Hành trình di sản Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Cùng với những di tích khảo cổ, những lịch sử - văn hóa mang nhiều giá trị bên sông Hồng, đi đến những vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tham quan, trải nghiệm không gian văn hóa của nhiều làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm tuổi ven sông Hồng, tạo nên nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước của cư dân người Việt.

Đi tìm "hồn trống" tang sành của người Dao

Đi tìm "hồn trống" tang sành của người Dao

Trống tang sành (hay còn gọi là trống đất) là nhạc cụ độc đáo của cộng đồng người Dao ở Lào Cai. Cuộc sống có nhiều thay đổi, giờ đây nghề làm trống tang sành bị thất truyền, số trống còn lại trên địa bàn tỉnh cũng không nhiều. Tuy vậy, hồn trống tang sành vẫn còn vẹn nguyên trong các dịp lễ, tết của đồng bào Dao như lễ cấp sắc, pút tồng, mừng cơm mới...

"Mở cánh cửa" đưa các làng nghề ở Hà Nội vươn tầm quốc tế

"Mở cánh cửa" đưa các làng nghề ở Hà Nội vươn tầm quốc tế

Theo thống kê, TP Hà Nội hiện nay có khoảng một nghìn làng nghề truyền thống, tập trung đông đảo các thợ thủ công, nghệ nhân lành nghề. Các làng nghề ở Hà Nội vẫn còn lưu giữ được rất nhiều nét văn hóa độc đáo của mảnh đất Tràng An xưa kia, đây là động lực góp phần phát triển du lịch Thủ đô.

Giữ nghề làm thuốc nam của người Dao đỏ

Giữ nghề làm thuốc nam của người Dao đỏ

Cùng với sự phát triển vượt bậc của y học hiện đại, những bài thuốc nam gia truyền ở vùng núi cao Bát Xát vẫn đang được bảo tồn, phát triển để hỗ trợ người dân chăm sóc sức khỏe, giảm bớt bệnh tật, có đời sống hữu ích, vui vẻ hơn.

Người Tày Bản Liền giữ nghề truyền thống

Người Tày Bản Liền giữ nghề truyền thống

Không chỉ gìn giữ nghề truyền thống của cha ông mình, đồng bào Tày ở Bản Liền (Bắc Hà) vẫn đau đáu câu chuyện bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa trong đời sống hằng ngày. Đặc biệt, những năm gần đây, từ việc bà con người Tày giữ nghề truyền thống đã thu hút du khách đến với Bản Liền, thúc đẩy kinh tế du lịch địa phương phát triển…

fb yt zl tw