“Làng nghề” hối hả đón tết

Chỉ còn 1 tuần nữa là đến tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, nhưng trước đó, "làng nghề” ở các địa phương trong tỉnh đã hối hả sản xuất, kịp thời cung cấp cho thị trường sản phẩm đặc hữu, mang đậm hương vị tết.

Bài 1: Đỏ lửa sấy lạp xường

Bài cuối: Hối hả sản xuất "trả đơn" miến dong

Gần tết cũng là thời điểm các cơ sở sản xuất miến dong truyền thống ở xã Bản Xèo, huyện Bát Xát bận rộn hơn bình thường để kịp “trả đơn” cho khách hàng.

miendong (2).JPG
Lọc nhiều lần để bột dong thật mịn.
miendong (3).JPG
Việc tráng bánh được làm thủ công, giúp sợi miến mỏng đều, thơm dẻo, dai giòn tự nhiên.

Tất bật, khẩn trương là không khí chúng tôi cảm nhận được ngay khi bước vào khu sản xuất của Hợp tác xã (HTX) miến dong Hưng Hiền, thôn Thành Sơn, xã Bản Xèo. Cả chủ cơ sở và hơn chục công nhân làm việc luôn tay, luôn chân. Xưởng sản xuất miến dong trở nên mờ ảo, ấm áp giữa cái rét ngọt cuối đông bởi hơi nước bốc lên liên tục từ khu tráng bánh.

miendong (5).JPG
miendong (4).JPG
Phơi bánh trên sào tre để ráo nước.

Vừa chỉ đạo công nhân sản xuất, vừa soát đơn, nghe điện thoại, thoăn thoắt đóng hàng để “trả đơn” cho khách, chị Cồ Thị Hiền, Giám đốc HTX miến dong Hưng Hiền chia sẻ: Làm miến dong là nghề có từ lâu đời ở xã Bản Xèo, cứ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau. Mỗi nhà có một “bí kíp” riêng nhưng cơ bản để tạo ra tinh bột, củ dong sẽ được sơ chế, rửa sạch, nghiền nát, lắng lọc nhiều lần tạo thành tinh bột thô, sau đó phơi dưới nắng khử mùi chua và bảo quản lâu dài. Khi làm miến, tinh bột thô sẽ được ngâm nước, lắng lọc, thau rửa nhiều lần để loại bỏ hết tạp chất, sau đó nghiền, phối trộn phù hợp và tráng, phơi, thái, đưa vào lò sấy, đóng gói, vận chuyển đến tay người tiêu dùng. Làm miến có hàng chục khâu, mỗi khâu cần 1 hoặc 2 công nhân cùng làm mới có thể cho ra những sợi miến thơm dẻo, dai giòn tự nhiên.

miendong (6).JPG
Thái miến thành sợi theo nhiều kích thước khác nhau.
miendong (7).JPG
Trải đều miến lên phên tre trước khi cho vào lò sấy.

Theo chị Hiền, việc sản xuất miến dong thường bắt đầu từ tháng 10 âm lịch hằng năm nhưng cao điểm nhất là trong tháng Chạp vì đa số khách hàng đặt miến để làm quà và sử dụng trong dịp tết. Bình thường, chúng tôi sản xuất từ 6 giờ đến 17 giờ nhưng riêng tháng Chạp phải tăng ca đến 22 giờ, thậm chí có thời điểm đơn hàng về nhiều, HTX phải thuê công nhân làm việc thâu đêm để kịp “trả đơn” cho khách.

miendong (1).JPG
Đầu tư hệ thống lò sấy giúp việc sản xuất của HTX miến dong Hưng Hiền không bị phụ thuộc vào thời tiết.

Để nâng cao sản lượng, HTX miến dong Hưng Hiền đã đầu tư hệ thống nồi tráng, máy thái, lò sấy, máy đóng gói bằng điện với chi phí hàng trăm triệu đồng. “Chúng tôi sử dụng nồi điện nhưng khâu tráng bánh vẫn được làm thủ công, đó là “chất” riêng của miến dong ở xã Bản Xèo” - chị Hiền chia sẻ.

Ngoài miến dong truyền thống, HTX miến dong Hưng Hiền còn sáng tạo đưa ra thị trường sản phẩm miến sâm độc đáo. Đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa tinh bột của củ dong riềng đỏ và củ hoàng sin cô (sâm đất) - một vị thuốc quý của núi cao để cho ra sản phẩm giàu dinh dưỡng. Miến sâm được sản xuất 60% tinh bột dong đỏ và 40% củ sâm đất, cho ra sản phẩm miến sâm màu vàng sẫm, dai ngon, thanh mát, phù hợp cho bệnh nhân tiểu đường hay người có chế độ ăn kiêng.

Với 2 sản phẩm chính là miến dong và miến sâm, mỗi năm, HTX miến dong Hưng Hiền cung ứng ra thị trường khoảng 10 tấn thành phẩm. “Dịp cuối năm, trung bình mỗi ngày, HTX có thể sản xuất và bán ra thị trường khoảng 400 - 500 kg miến khô. Tuy nhiên, đơn hàng thường đến dồn dập vào những ngày cận tết, có ngày, chúng tôi xuất ra thị trường hơn 1 tấn miến khô. Miến dong Hưng Hiền nay đã có mặt ở khắp các tỉnh, thành phố phía Bắc và một số tỉnh miền Trung, miền Nam, như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau…” - chị Hiền cho biết.

miendong (8).JPG
miendong (9).JPG
Tất bật đóng gói để "trả đơn" cho khách hàng trong dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn.

Là chủ “thương hiệu” miến ông Nghệ nức tiếng trong Nam, ngoài Bắc, thời điểm này, gia đình ông Cù Như Nghệ cũng đang tất bật sản xuất để phục vụ thị trường tết. Được làm thủ công hoàn toàn nên những ngày này, lò tráng bánh của gia đình ông Nghệ luôn đỏ lửa, người vào, người ra tấp nập, miến làm ra tới đâu hết tới đó. Gần một tháng nay, ông Nghệ luôn thiếu ngủ, mỗi ngày, ông chỉ có 4 tiếng đồng hồ để nghỉ ngơi, chợp mắt, bởi biết bao đơn hàng đang chờ. Dù khuôn mặt lộ rõ vẻ mệt mỏi, nhưng ông Nghệ vẫn hào hứng khi tâm sự về nghề truyền thống của gia đình: Hiện đang trong thời kỳ cao điểm làm miến để cung cấp cho thị trường, phục vụ tết Nguyên đán Giáp Thìn. Gia đình đã phải thuê thêm người làm, nhưng vẫn không xuể, đành phải từ chối một số đơn hàng.

Đây không phải lần đầu tiên ông Nghệ tiếc nuối, mà nhiều năm qua, gia đình ông luôn chấp nhận “bỏ” đơn hàng. Vẫn biết dịp tết là cơ hội để tăng thu nhập từ nghề làm miến dong, nhưng ông Nghệ kiên quyết theo đuổi hai chữ “truyền thống”. Gia đình ông có tài chính để đầu tư máy móc hiện đại, nhưng ông chỉ muốn làm ra những sợi miến dong dai, giòn từ chính đôi bàn tay khéo léo. “Dẫu không đủ đáp ứng nhu cầu, nhưng ít mà chất, người tiêu dùng không bao giờ quay lưng với miến do gia đình tôi làm ra, thậm chí vài năm trở lại đây, có cả khách hàng từ miền Nam đặt mua”, ông Nghệ cho hay.

Hiện tại, mỗi ngày gia đình ông Nghệ tráng được 100 - 120 kg bánh. Việc thái sợi do hai ông bà đảm nhận, làm liên tục từ 3 giờ - 6 giờ sáng mới kết thúc. Do công việc thực hiện vào khoảng thời gian này nên ông Nghệ thường xuyên “thiếu ngủ” và mệt mỏi. “Vất vả, mệt mỏi, nhưng gia đình tôi vui lắm, vì sản phẩm làm ra đến đâu bán hết đến đó”, ông Nghệ bảo. Dịp tết này, gia đình ông Nghệ sản xuất khoảng 3 tấn miến dong, trừ chi phí cho thu nhập khoảng 100 triệu đồng.

Ngoài HTX miến dong Hưng Hiền và gia đình ông Nghệ, thời điểm này, nhiều cơ sở, hộ sản xuất miến dong ở thôn Thành Sơn đều tất bật sản xuất để phục vụ thị trường tết. Dù sử dụng máy móc hiện đại hay bằng dây chuyền thủ công truyền thống, “làng nghề” sản xuất miến dong ở thôn Thành Sơn đều tận tâm để cho ra những sản phẩm chất lượng nhất, kịp “trả đơn” hàng cho khách trong dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường tỉnh Hoà Bình (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự tôn vinh, ghi nhận và là niềm tự hào của người Mường, động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Giữa lòng Cao nguyên đá hùng vĩ có một câu chuyện về văn hóa bản địa và hành trình vươn lên mạnh mẽ của những người phụ nữ dân tộc Mông. Từ sợi lanh truyền thống, họ đã và đang bền bỉ dệt nên sự bình đẳng, nâng tầm vị thế của mình trong cộng đồng.

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

[Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Làng nghề trống Đọi Tam ở xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là làng nghề có lịch sử phát triển hơn 1.000 năm và là làng nghề nổi tiếng với sản phẩm trống truyền thống. Ngoài việc giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo, làng nghề còn linh hoạt đổi mới để đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người tiêu dùng.

Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Sông Hồng – Hành trình di sản Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Cùng với những di tích khảo cổ, những lịch sử - văn hóa mang nhiều giá trị bên sông Hồng, đi đến những vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tham quan, trải nghiệm không gian văn hóa của nhiều làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm tuổi ven sông Hồng, tạo nên nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước của cư dân người Việt.

fb yt zl tw