"Mở cánh cửa" đưa các làng nghề ở Hà Nội vươn tầm quốc tế

Theo thống kê, TP Hà Nội hiện nay có khoảng một nghìn làng nghề truyền thống, tập trung đông đảo các thợ thủ công, nghệ nhân lành nghề. Các làng nghề ở Hà Nội vẫn còn lưu giữ được rất nhiều nét văn hóa độc đáo của mảnh đất Tràng An xưa kia, đây là động lực góp phần phát triển du lịch Thủ đô.

Các sản phẩm trưng bày ở làng Gốm Bát Tràng có vẻ đẹp độc đáo, sáng tạo.
Các sản phẩm trưng bày ở làng Gốm Bát Tràng có vẻ đẹp độc đáo, sáng tạo.

Hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển

Vào ngày 14/2 vừa qua, hai làng nghề ở Hà Nội là Gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm) và Dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông) là thành viên chính thức của mạng lưới các Thành phố Thủ công sáng tạo thế giới. Đây cũng là hai làng nghề đầu tiên ở Việt Nam lọt vào tốp mạng lưới các Thành phố Thủ công sáng tạo trên thế giới.

Đại diện Hội đồng Thủ công thế giới năm nay đã dành nhiều lời khen cho làng nghề Bát Tràng và Vạn Phúc. Hội đồng cho biết hai làng là những biểu tượng của sự hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Câu chuyện của hai làng nghề này là minh chứng rõ ràng cho tinh thần bền bỉ của cộng đồng, cho thấy rằng dù phải đối mặt với bao khó khăn, họ vẫn có thể vươn lên và một lần nữa trở thành trung tâm của nền thủ công mỹ nghệ và niềm tự hào văn hóa.

Trong năm 2024, có rất nhiều làng nghề, nghề truyền thống của Hà Nội vinh danh trên nhiều diễn đàn khác nhau. Như Làng cổ Đường Lâm đã được xướng tên trên bục nhận giải tại lễ Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) 2024 diễn ra tại Lào. Vào đầu năm nay, UBND quận Tây Hồ công bố quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về di sản văn hóa phi vật thể “tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống - nghề trồng đào Nhật Tân”.

Thực tế, Hà Nội có hơn 1 nghìn làng nghề và làng có nghề, chiếm tới 56% tổng số làng nghề trong cả nước, hội tụ 47/52 nghề truyền thống. Các làng nghề của Hà Nội hoạt động trong đa dạng lĩnh vực như làng sơn mài Hạ Thái, làng làm nón lá Chuông, làng khảm trai Chuôn Ngọ... Trong đó, chiếm tỷ lệ lớn nhất là các làng nghề sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ chế biến. Tiếp đến là các làng nghề bảo quản, chế biến nông sản; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; xử lý nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn...

Mỗi làng nghề đều mang một bản sắc riêng, tạo ra những sản phẩm độc đáo, tinh xảo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Các sản phẩm làng nghề đa dạng, nhiều chủng loại, đa số có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt. Làng nghề đang cung cấp công ăn việc làm cho người lao động ở mọi lứa tuổi, đặc biệt hấp dẫn các tour du lịch trong và ngoài nước liên tục đến tham gia. Đây chính là nền tảng vững chắc để xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa trong thời đại hiện nay.

Học hỏi để khắc phục nhược điểm

Phát biểu tại sự kiện đón nhận 2 làng nghề, ông Aziz Murtazaev, Chủ tịch Hội đồng Thủ công thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương đánh giá TP Hà Nội rất có tiềm năng để phát triển du lịch làng nghề, ông mong muốn Hà Nội sẽ có nhiều bước tiến mới trong việc nâng tầm các làng nghề, bảo tồn và thu hút, truyền cảm hứng cho nhiều quốc gia khác.

Hiện nay, TP Hà Nội cũng đang có những kế hoạch liên kết, hỗ trợ, giúp đỡ các làng nghề. UBND TP Hà Nội đã ban hành Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; phê duyệt Đề án tổng thể phát triển làng nghề trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đồng thời có nhiều cơ chế, chính sách để bảo tồn và phát triển làng nghề trên địa bàn Thủ đô.

Bên cạnh chính sách hỗ trợ, tạo liên kết cho các làng nghề, vẫn cần sự thay đổi để những làng nghề khắc phục nhược điểm để cùng nhau phát triển, nâng vị thế du lịch Việt Nam. Như thực tế cho thấy, một làng nghề đạt được những danh hiệu mang tầm quốc tế và được nhiều tổ chức uy tín giới thiệu cho bạn bè năm châu cần đạt nhiều tiêu chí. Trong đó, việc quan trọng nhất là giữ được nghề truyền thống, bản sắc văn hóa, dân tộc. Giống như làng Gốm Bát Tràng, làng Lụa Vạn Phúc đều còn nhiều hộ gia đình tiếp tục “truyền lửa, giữ lửa” suốt nhiều thế hệ.

Ngoài ra, việc đảm bảo sinh kế, an sinh xã hội cho người dân ở làng nghề, phát triển làng nghề bền vững gắn bó với môi trường, tiếp tục sáng tạo các sản phẩm độc đáo,... cũng vô cùng quan trọng. Trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, anh Vũ Đức Quân, chủ cơ sở sản xuất mỹ nghệ, đồ gỗ Hùng Hồng tại làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ (huyện Phú Xuyên, Hà Nội) cho biết, thời gian học việc dài, đồng lương cơ bản chưa cao, không đủ bảo đảm cuộc sống sau khi về hưu, vì vậy, nhiều người trẻ không còn mặn mà gìn giữ nghề truyền thống.

Ngoài vấn đề về sinh kế, hướng phát triển một làng nghề bền vững đang là tiêu chí đánh giá quan trọng. Lấy ví dụ như cần ổn định môi trường, nguồn nước để người dân sống ở trong và xung quanh làng nghề được hưởng bầu không khí an toàn, trong lành. Đây là một bài học mà rất nhiều làng nghề khác cần phải chú ý.

Chia sẻ với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam tại buổi trao đổi ở làng Quảng Phú Cầu, Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và làng nghề Hà Nội Hà Thị Vinh nhận định, những người dân có vai trò quan trọng trong việc giải quyết ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Vì vậy, cần tuyên truyền để người dân ở làng nghề hiểu được tầm quan trọng của môi trường. Đặc biệt, xử lý ô nhiễm môi trường từ khâu quy hoạch, xác định nguồn ô nhiễm ở giai đoạn nào trong quy trình sản xuất để đưa ra những giải pháp giải quyết cụ thể.

Theo baophapluat.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Người Khơ Mú giữ "hồn" tre nứa

Người Khơ Mú giữ "hồn" tre nứa

Suốt chiều dài lịch sử, tre nứa đã trở thành người bạn thân thiết trong đời sống đồng bào Khơ Mú ở phường Nghĩa Lộ (tỉnh Yên Bái trước đây, nay thuộc tỉnh Lào Cai). Qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân, người thợ, tre nứa được thổi hồn thành nong, nia, giỏ, gùi, sọt, ghế… Các vật dụng gắn bó với lao động, sinh hoạt hằng ngày và cả tín ngưỡng, tâm linh. Giữa nhịp sống hiện đại, người Khơ Mú vẫn lặng lẽ giữ nghề truyền thống - gìn giữ cội nguồn.

Giữ lửa nghề mộc Phù Yên

Giữ lửa nghề mộc Phù Yên

Trong khi nhiều làng nghề truyền thống đang dần mai một trước làn sóng công nghiệp hóa và đô thị hóa, thì ở thôn Phù Yên, xã Phú Nghĩa (Hà Nội), một thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết đang tiếp nối và làm mới nghề mộc truyền thống. Họ không chỉ giữ nghề mà còn đang thổi luồng sinh khí mới vào làng nghề hàng trăm năm tuổi.

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường tỉnh Hoà Bình (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự tôn vinh, ghi nhận và là niềm tự hào của người Mường, động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Giữa lòng Cao nguyên đá hùng vĩ có một câu chuyện về văn hóa bản địa và hành trình vươn lên mạnh mẽ của những người phụ nữ dân tộc Mông. Từ sợi lanh truyền thống, họ đã và đang bền bỉ dệt nên sự bình đẳng, nâng tầm vị thế của mình trong cộng đồng.

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

fb yt zl tw