Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

Giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao.
Giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao.

Người dân hưởng lợi

Dưới cái nắng ở vùng ven biển Ninh Bình giữa tháng 4, những bàn tay chai sạn của người thợ vẫn miệt mài đan từng sợi cói óng ả. Công việc tưởng chừng giản đơn ấy giờ đây mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, khi nghề cói Kim Sơn là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ ngày 25/4/2024.

Tại cơ sở sản xuất cói của bà Phan Thị Ngoãn (trú xóm An Cư 2, xã Thượng Kiệm), không khí lao động hăng say thấy rõ, những người thợ đang miệt mài làm ra từng sản phẩm. Bà Ngoãn cho biết, nghề đan cói ở Thượng Kiệm đã gắn liền với bao thế hệ, nay được công nhận là di sản, người dân rất mừng.

Theo bà Ngoãn, nghề cói Kim Sơn có lịch sử hình thành từ thế kỷ XIX, gắn liền với công cuộc khai hoang lấn biển của cư dân vùng đồng bằng Bắc bộ. Cây cói, loài thực vật ưa nước mặn, đã trở thành nguồn nguyên liệu quý giá để người dân sáng tạo nên những sản phẩm độc đáo. Từ những tấm chiếu cói thô sơ ban đầu, qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, đã phát triển thành hàng trăm loại sản phẩm tinh xảo như túi xách, mũ, thảm trang trí, đồ lưu niệm...

“Nghề đan cói ngày xưa được coi là nghề phụ, tranh thủ lúc nông nhàn mới làm. Nhưng hiện nay, giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao, lại được công nhận là nghề di sản nên số lượng đơn hàng và thu nhập của người dân đã tăng lên rất nhiều. Hiện nay, cơ sở của tôi đang tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động với mức thu nhập từ 300 nghìn đồng/người/ngày. Năm 2024, từ việc sản xuất, bán trực tiếp và đấu nối thu mua, bán hộ các sản phẩm từ cói cho hơn 100 hộ dân, trừ hết chi phí đi, tôi có lãi gần 300 triệu đồng” - bà Ngoãn nói.

Chị Nguyễn Thị Nguyệt (trú xóm An Cư 2) cho biết: Bản thân chị có thâm niên hơn 10 năm làm nghề đan cói. Trước kia, các sản phẩm chỉ là chiếu, thảm… nhưng nay, nghề đã phát triển, đơn hàng đến nhiều nên phải liên tục cập nhập mẫu mã mới, phục vụ thị hiếu ngày càng cao của thị trường. “Nếu có tay nghề tốt, chăm chỉ làm việc thì một người thợ có thể kiếm được 400 nghìn đồng/ngày. Cái hay của nghề là không bị bó buộc thời gian, ngồi ở đâu cũng làm được, nên rất tiện cho những người hay bận bịu việc đồng áng và gia đình như tôi” - chị Nguyệt nói.

Nâng cao giá trị làng nghề

Ông Nguyễn Khải Hoàn - Chủ tịch UBND xã Thượng Kiệm cho biết: Hiện nay, tại địa phương, có khoảng 1.200 hộ dân đang làm nghề đan cói. Theo ông Hoàn, trong những năm gần đây, nghề này phát triển rất mạnh, nhiều cơ sở xuất khẩu các sản phẩm từ cói ra sang Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu, thu lợi nhuận lớn. “Riêng năm 2024, nguồn thu từ việc sản xuất, chế biến các sản phẩm từ cói trên địa bàn đã đạt gần 40 tỷ đồng” - ông Hoàn tự hào nói.

Trao đổi với phóng viên Báo Đại Đoàn Kết, ông Trần Anh Khôi - Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường, UBND huyện Kim Sơn cho biết: Trên địa bàn huyện, hiện có gần 30 doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ cói, thu hút khoảng 1.000 lao động thường xuyên. Ngoài ra, còn có hàng chục nghìn lao động là nông dân, người lao động tận dụng thời gian nông nhàn, cũng đan cói và có thu nhập tốt. “Các sản phẩm từ cói ở Kim Sơn đã xuất khẩu tới gần 20 quốc gia, trong đó, nhiều sản phẩm đã đạt chứng nhận OCOP của tỉnh như gương cói, túi cói, bình hoa… Năm 2024, doanh thu từ việc chế biến cói trên địa huyện ước đạt gần 200 tỷ đồng” - ông Khôi nói.

Ông Phạm Văn Sang - Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin, UBND huyện Kim Sơn cho biết: Hiện nay, toàn huyện có 25 làng nghề truyền thống, trong đó, chủ yếu là các làng nghề làm cói. Đằng sau những kết quả đã đạt được, ông Sang cho rằng, vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức để gìn giữ và nâng cao giá trị nghề làm cói truyền thống. Trong đó, vấn đề nghiêm trọng nhất là tình trạng biến đổi khí hậu khiến diện tích trồng cói ngày càng thu hẹp; làn sóng đô thị hóa kéo theo tình trạng thiếu hụt lao động khi nhiều thanh niên chọn làm công nhân thay vì theo đuổi nghề; cùng với đó, là sự cạnh tranh khốc liệt từ các mặt hàng công nghiệp giá rẻ…

Để tìm ra hướng đi bền vững trong thời gian tới, ông Sang cho biết thêm: UBND huyện cũng đã phối hợp với Trung tâm xúc tiến du lịch của tỉnh, manh nha ý tưởng hình thành tour du lịch, kết nối các địa điểm trên địa bàn như: Nhà thờ Phát Diệm - Cầu ngói Phát Diệm - Bãi Ngang - Cồn Nổi - làng cói Kim Sơn… “Nếu triển khai được, ngoài việc đi khám phá các điểm du lịch, du khách có thể tận mắt chứng kiến quy trình làm ra sản phẩm, từ khâu trồng cói, thu hoạch đến đan lát thành phẩm. Chúng tôi xác định, bảo tồn nghề cói không chỉ là giữ gìn di sản văn hóa, mà còn là phát triển kinh tế bền vững” - ông Sang nói.

Theo daidoanket.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường tỉnh Hoà Bình (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự tôn vinh, ghi nhận và là niềm tự hào của người Mường, động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Giữa lòng Cao nguyên đá hùng vĩ có một câu chuyện về văn hóa bản địa và hành trình vươn lên mạnh mẽ của những người phụ nữ dân tộc Mông. Từ sợi lanh truyền thống, họ đã và đang bền bỉ dệt nên sự bình đẳng, nâng tầm vị thế của mình trong cộng đồng.

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

[Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Làng nghề trống Đọi Tam ở xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là làng nghề có lịch sử phát triển hơn 1.000 năm và là làng nghề nổi tiếng với sản phẩm trống truyền thống. Ngoài việc giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo, làng nghề còn linh hoạt đổi mới để đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người tiêu dùng.

Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Sông Hồng – Hành trình di sản Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Cùng với những di tích khảo cổ, những lịch sử - văn hóa mang nhiều giá trị bên sông Hồng, đi đến những vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tham quan, trải nghiệm không gian văn hóa của nhiều làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm tuổi ven sông Hồng, tạo nên nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước của cư dân người Việt.

Đi tìm "hồn trống" tang sành của người Dao

Đi tìm "hồn trống" tang sành của người Dao

Trống tang sành (hay còn gọi là trống đất) là nhạc cụ độc đáo của cộng đồng người Dao ở Lào Cai. Cuộc sống có nhiều thay đổi, giờ đây nghề làm trống tang sành bị thất truyền, số trống còn lại trên địa bàn tỉnh cũng không nhiều. Tuy vậy, hồn trống tang sành vẫn còn vẹn nguyên trong các dịp lễ, tết của đồng bào Dao như lễ cấp sắc, pút tồng, mừng cơm mới...

fb yt zl tw