LCĐT - Ngày 17/2/1979, khi đó họ là những cậu bé mới 10 tuổi, nhưng đã phải chân đất với manh áo cộc theo gia đình chạy loạn. Đến nay, đã 40 năm, họ đã bước vào tuổi bắt đầu bên kia “sườn dốc” cuộc đời, nhưng sự kiện mùa xuân năm ấy không hề phai mờ, thậm chí trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người và họ cũng tự gọi mình là dân “chạy Tàu”.
Hằn sâu ký ức
Cách đây 40 năm, anh Nguyễn Trung Kiên (hiện ở Sa Pa) là cậu bé học trò tiểu học ở xã Phố Lu. Khi đó, Nguyễn Trung Kiên và các bạn cùng trang lứa đã phải trải qua cuộc chạy loạn trong sự sợ hãi vô cùng. Nhắc lại sự kiện mùa xuân tháng 2/1979, anh Kiên vô cùng xúc động và kể lại từng chi tiết như mới xảy ra hôm qua.
![]() |
Anh Nguyễn Trung Kiên. |
Một rạng sáng mùa xuân năm 1979, lũ trẻ chúng tôi đang cuộn tròn trong chiếc chăn bông ấm áp, mơ màng trong giấc ngủ là những tiếng ì ùng từ xa vọng về như tiếng sấm rền không dứt. Không như thường lệ, mẹ gọi lũ chúng tôi từ rất sớm để học bài và chuẩn bị đến trường. Gần đến giờ đi học, mẹ mới đến bên giường khẽ khàng: “Các con dậy ăn sáng còn đi học nào”. Bên bếp lửa, cha tôi đang hì hụi bắc xoong gà còn đang nghi ngút khói. Thì ra, cha mẹ đã dậy từ rất sớm để chuẩn bị cho bữa sáng đặc biệt này. Rất ân cần, cha mẹ gắp từng miếng cho chúng tôi, nhưng biểu hiện thì khác lạ như đang cố giấu điều gì to lớn lắm. Mấy chị em dắt nhau đến trường, giáo viên, học sinh đều đến đầy đủ, bao trùm không gian là cảm giác lạnh lẽo. Học sinh vào lớp, cô giáo bảo: “Hôm nay, các em được nghỉ” mà không giải thích lý do. Ngơ ngác, lũ trẻ từng nhóm lục đục kéo nhau về, mà không dám hỏi khi thấy cô như sắp khóc. Về gần đến nhà, dọc quốc lộ, song song là đường sắt, giật mình thấy rất nhiều người bằng đủ phương tiện đang hối hả về xuôi. In sâu trong ký ức là hình ảnh một nhóm bộ đội đang nghỉ bên đường, đầu, người quấn băng còn đầy máu tươi, ngực áo có chữ “Kiên Cường”. Mấy chị em quàng về nhà, mẹ bảo: “Tàu đánh mình rồi”. Đó là ngày 17/2 đen tối.
Nhà tôi ở Phố Lu, một đầu mối trung chuyển, cách thị xã Lào Cai một tầm đạn pháo, mấy ngày liền đứng cửa, thấy người chạy loạn huyên náo, xe cộ ngổn ngang mà kinh hãi vô cùng. Tiếng pháo vẫn rền không dứt. Mấy ngày sau (20/2), cứ 5 gia đình ở lâm trường bộ được một xe tải đưa về Yên Bái, dọc đường mẹ cứ khóc: “Tao còn đứa em ở Bát Xát, dì Tuyết đấy, không biết có chạy được không?. Cha tôi ở lại chiến đấu cùng những người đàn ông khác, với trách nhiệm là đại đội trưởng tự vệ của lâm trường bộ. Ở Ty Lâm nghiệp Hoàng Liên Sơn được hai ngày, mấy mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lên chuyến tàu chật cứng về quê, vì khi đi chỉ mang theo được đùm gạo, bu gà, biết lấy gì mà ăn. Rõ là cảnh chạy loạn. Quê tôi - một tỉnh đồng bằng Bắc bộ giàu truyền thống, biết đùm bọc yêu thương nhau, nhà tôi về cả làng ra đón, rồi lục đục gia đình các bác, các dì đều về đầy đủ, cả gia đình dì Tuyết nữa. Ơn trời, không thiếu một ai. Các bác ruột, cậu ruột họp, phân công nhau sắp xếp nơi ăn chốn ở cho anh em trên Lào Cai về.
Lo cho cha quá, cỡ nửa tháng sau, một hôm bác ruột tôi líu ríu chạy dọc đường làng, vừa chạy vừa gọi: “Tâm, Thu, Kiên, Tuấn ơi… Bố chúng mày về kìa”. Mấy chị em ùa ra ôm chầm lấy cha, mừng không tả, mẹ tôi sững lại, đánh rơi chiếc ấm, tôi thấy mắt mẹ lấp lánh những giọt vui, gia đình đoàn tụ. Cha tôi kể, ở thêm một tuần trực chiến, nhà còn mấy con lợn, đem mổ thết đãi anh em, vì không cũng mất sạch, thực hiện “vườn không, nhà trống”, có gì đem chôn giấu được, thì chôn giấu, nhà mở toang cửa, tủ không khóa… nhà nào cũng vậy. Chưa đánh đấm được trận nào thì được lệnh rút quân toàn tuyến, tất cả tuần tự men theo sông Hồng về Yên Bái, bàn giao vũ khí, khí tài theo từng đơn vị, rồi được trên cho phép về quê, bao giờ có điện tín liên lạc thì tập hợp. Sum họp với gia đình đâu được gần tháng, cha tôi lặng lẽ đi, ông không chào chúng tôi vì sợ bịn rịn.
Rồi cuộc chiến tranh đi qua, các gia đình lần lượt trở về Lào Cai, lũ trẻ chúng tôi trở về sau cùng, khi khai giảng năm học mới. Giặc tràn qua Phố Lu 5 km, những nơi chúng qua, đường xá, cầu cống, công sở, nhà cửa bị ốp mìn phá sạch, nhà tôi không hiểu sao vẫn còn nguyên vẹn.
Nhà tôi tiện đường, hơn nữa rộng lắm, vườn cũng rộng, đã thế lại còn có giếng khơi, nước đầy ăm ắp, uống vào ngọt lịm. Vì vậy, nhà tôi như một trạm trung chuyển, hôm nào cũng có hàng đoàn xe quân đội đỗ thành hàng dài trước cửa, hết trung đoàn vận tải Quân khu 2, tiểu đoàn vận tải Quân đoàn 6 (sau là Quân đoàn 29), đại đội vận tải của Sư đoàn 316, Sư đoàn 345… chờ chuyển lương, quân. Đã thế, đối diện là hóa trường đường sắt, hàng ngày những đoàn tàu chở lương thực, vũ khí, khí tài… xếp la liệt chờ chuyển tải, phân phối cho từng đơn vị.
Tôi được cha phân công đun nước phục vụ, ngày nào cũng mấy nồi tướng, bưng lên đãi khách, được hóng chuyện, mới biết mờ sáng 17/2, thám báo Trung Quốc mò sang giết sạch một đội nữ Lâm sinh Bản Phiệt, khi mọi người còn say trong giấc ngủ; biết tại Bản Vược (Bát Xát), Trung Quốc làm cầu phao đã tính toán kỹ, thả trôi một đầu sang sông Hồng là vừa khít bờ Việt Nam, xe tăng cứ thế tràn qua; biết giặc lao cầu phao qua sông Nậm Thi, qua chiếc nào, ta bắn thủng chiếc đó; biết công an vũ trang Đồn cửa khẩu Lào Cai giật bộc phá, phá hủy Cầu Kiều để ngăn giặc; biết ta phản pháo cháy hết rừng cao su bên bờ Trung Quốc; biết tự vệ Lào Cai anh dũng chiến đấu ở pháo đài Lào Cai và thoát ra bằng cách nào… Qua lời kể của người về từ chiến trận, chiến sự mùa xuân năm 1979 đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ tôi, đến nay vẫn không hề phai nhạt.
Vết thương tuổi thơ
Mùa xuân năm 1979, cậu bé Lương Hữu Sự khi ấy mới 10 tuổi. Nhà ở xóm Sơn Đạo, khu phố Cốc Lếu, thị xã Lào Cai (sau Chi cục Thuế thành phố Lào Cai hiện nay) - thị xã giáp biên, nên dường như Sự cảm nhận được chiến tranh sớm hơn. Sau 40 năm, kể lại về ký ức của mùa xuân năm ấy, anh Sự say sưa như đang trở về những ngày thơ ấu khủng khiếp ấy.
![]() |
Anh Lương Hữu Sự. |
5 giờ sáng 17/2/1979, khi cả nhà đang ngủ, bỗng tiếng pháo bắn sang đồi Thanh Niên kèm tiếng nổ chát chúa, bố mẹ tôi vùng dậy, gọi 3 anh em và hét to: Trung Quốc bắn Việt Nam đấy, rồi tất cả chạy sang hầm trú ẩn. Kể đến đây, anh Sự giãi bày: Tại sao có hầm trú ẩn? Năm 1978, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có những vấn đề, Trung Quốc kêu gọi tất cả người Hoa về nước. Lo sợ chiến tranh xảy ra, mỗi gia đình ở thị xã Lào Cai đào một hầm trú ẩn (hầm chữ A, hầm mái bằng), mỗi nhân khẩu phải nộp 5 mũi chông bằng tre vót. Do tôi là con cả, nên được theo bố đi chặt tre, xem ông vót 25 mũi chông nộp cho chính quyền để cắm dọc bờ sông Hồng.
Ở trong hầm trú ấn vẫn nghe rõ tiếng đạn pháo nổ không ngớt. Một lúc sau, thấy tình hình tạm ổn, mẹ tôi trở về nhà nấu cơm, nhưng cả nhà không ai ăn nổi vì sợ hãi. Khi trời sáng hẳn, tiếng còi ủ báo giờ làm việc của Nhà máy Điện Lào Cai vẫn cất lên bình thường. Với những người dân thị xã biên giới Lào Cai, tiếng còi ủ đã ăn sâu vào tiềm thức, với tôi nghe thấy tiếng còi ủ là chuẩn bị đến trường. Nhưng sáng hôm đó, bố kiên quyết không cho anh em tôi đi học. Đến 8 giờ sáng, khi có lệnh sơ tán, mẹ tôi địu em út trên lưng, dắt tôi và em gái đi qua đồi máy gạt (đồi Trung tâm Giống cây trồng Lào Cai hiện nay) để sang đường mới (đường Nhạc Sơn hiện nay) để xuôi xuống cầu số 4 Kim Tân. Bố tôi ở lại, tham gia dân quân để bảo vệ kho của Hợp tác xã cơ khí 19/8. Kể đến đây, anh Sự dừng lại hồi lâu: Nghĩ lại thấy sợ vô cùng, vừa đi qua đồi máy gặt thì đạn pháo Trung Quốc bắn tới, 4 mẹ con chạy miết, thương cho em gái, còn nhỏ vừa chạy, vừa thở không ra hơi. Khi đến trạm gác xã Nam Cường, tôi đã thấy xe chở bộ đội bị thương đến đó. Do đến trưa, sợ 3 anh em tôi đói, mẹ bảo tôi trông hai em, còn bà đi nấu cơm nhờ. Gạo vừa đổ vào nồi, thì một quả đạn pháo bắn cách đó không xa. Thế là, mẹ tôi phải đổ gạo vào rá cho dóc nước, rồi cho vào túi mang đi. Đi tiếp một đoạn, thì thấy bố tôi ngược lên, tay cầm theo dao và cặp lồng cơm. Sau này tôi mới biết, khi thấy đạn pháo bắn lên đồi máy gạt, bố tôi lo lắng nên đi tìm. Ông mừng đến phát khóc, ôm vội lấy anh em tôi, rồi bón cho các con từng thìa cơm. Ăn xong, cả nhà vội vã đi bộ xuống đập tràn, ở nhờ nhà của người Tày, nấu cơm ăn, chờ trời tối tiếp tục lội suối qua Quốc lộ 4E để xuôi về Bến Đền. Đến cầu treo Bến Đền, người kín như nêm, thấy vậy, bố mẹ dắt tay chúng tôi lội qua suối (do mùa này suối cạn). Do đi vào ban đêm và không được dùng đuốc vì sợ địch phát hiện sẽ dùng pháo kích, nên người đi sau phải bám vào người đi trước. Đi qua ngã ba (ngã ba Xuân Giao hiện nay), cả nhà tôi may mắn được lái xe “gấu” của Mỏ Apatit cho đi nhờ ra đến bến phà Phố Lu. Đến đây, lại tắc đường do dòng người “chạy Tàu” đông đúc và hỗn loạn. Lần này, phà không vào thẳng mũi mà chỉ cho một góc phà cập bờ. Ai cũng muốn được lên phà, nên tình hình hỗn loạn, mất kiểm soát, thấy vậy, bố tôi lội xuống sông, nước đến ngang ngực, bế mẹ và 3 anh em lên phà.
Sang bên bờ, bố mẹ nhặt bã mía làm củi để nấu cơm. Ngặt nỗi, phải chờ nhà này nấu xong thì nhà khác mới có nồi để nấu. Thành ra, chúng tôi bị đói, em gái khóc ngất, bố thấy vậy liền xách cặp lồng đi xin những nhà nấu cơm xong trước để về bón cho chúng tôi. Chờ đến hơn một ngày, cả gia đình lên tàu xuôi về Yên Bái. Ở Yên Bái 2 ngày, bố tôi ra trạm cứu tế để nhận gạo, bột mỳ ăn trong ngày, thấy không ổn, ông quyết định đưa cả nhà lên tàu về quê. Do là thợ cơ khí, nên về quê, bố tôi mở lò rèn, nhận sửa cày, cuốc cho người con trong xã để đổi lấy lương thực, nuôi gia đình qua ngày đoạn tháng.
Khi có thông tin Trung Quốc rút về nước, mẹ tôi một mình đi tàu lên Lào Cai để thăm lại nhà. Quay trở về, mẹ bảo: Nhà mình không sao, nhưng đồ đạc mất hết, chỉ còn một số giấy tờ, trong đó có giấy khai sinh của anh em tôi và chút quần áo. Cuối năm 1979, gia đình tôi quyết định lên tàu trở về Lào Cai, đến Làng Giàng, cả nhà xuống đây và ở nhờ khu tập thể Nhà máy sắn (khu Xuân Tăng, thị xã Cam Đường) và đón tết ở đó. Thời gian sau, bố mẹ tôi ra khu bờ hồ Xuân Tăng, san gạt đất, chặt cây, đan liếp tre làm nhà. Hằng ngày, bố mẹ đan bu gà, làm chổi để bán cho người dân, chúng tôi tiếp tục được cắp sách đến trường.
Năm 1982, có lệnh điều động dân cư, xây dựng xã biên giới, cả gia đình chuyển lên khu Kim Hải, xã Đồng Tuyển. Khu vực nhà cũ của gia đình tôi trở thàn vành đai trắng, chỉ được phép làm ruộng, làm nương. Mỗi lần làm nương, tôi đều thăm nơi “chôn rau cắt rốn” của mình.
Mỗi lần, khi nhìn tờ lịch ngày 17/2, anh Kiên, anh Sự và nhiều người khác cảm thấy nỗi ám ảnh và sợ hãi trở về, đó là vết thương tuổi thơ và đó là một thời để nhớ.