Chuyện kể của những cậu bé “chạy Tàu”

LCĐT - Ngày 17/2/1979, khi đó họ là những cậu bé mới 10 tuổi, nhưng đã phải chân đất với manh áo cộc theo gia đình chạy loạn. Đến nay, đã 40 năm, họ đã bước vào tuổi bắt đầu bên kia “sườn dốc” cuộc đời, nhưng sự kiện mùa xuân năm ấy không hề phai mờ, thậm chí trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người và họ cũng tự gọi mình là dân “chạy Tàu”.

Hằn sâu ký ức

Cách đây 40 năm, anh Nguyễn Trung Kiên (hiện ở Sa Pa) là cậu bé học trò tiểu học ở xã Phố Lu. Khi đó, Nguyễn Trung Kiên và các bạn cùng trang lứa đã phải trải qua cuộc chạy loạn trong sự sợ hãi vô cùng. Nhắc lại sự kiện mùa xuân tháng 2/1979, anh Kiên vô cùng xúc động và kể lại từng chi tiết như mới xảy ra hôm qua.

Anh Nguyễn Trung Kiên.
Anh Nguyễn Trung Kiên.

Một rạng sáng mùa xuân năm 1979, lũ trẻ chúng tôi đang cuộn tròn trong chiếc chăn bông ấm áp, mơ màng trong giấc ngủ là những tiếng ì ùng từ xa vọng về như tiếng sấm rền không dứt. Không như thường lệ, mẹ gọi lũ chúng tôi từ rất sớm để học bài và chuẩn bị đến trường. Gần đến giờ đi học, mẹ mới đến bên giường khẽ khàng: “Các con dậy ăn sáng còn đi học nào”. Bên bếp lửa, cha tôi đang hì hụi bắc xoong gà còn đang nghi ngút khói. Thì ra, cha mẹ đã dậy từ rất sớm để chuẩn bị cho bữa sáng đặc biệt này. Rất ân cần, cha mẹ gắp từng miếng cho chúng tôi, nhưng biểu hiện thì khác lạ như đang cố giấu điều gì to lớn lắm. Mấy chị em dắt nhau đến trường, giáo viên, học sinh đều đến đầy đủ, bao trùm không gian là cảm giác lạnh lẽo. Học sinh vào lớp, cô giáo bảo: “Hôm nay, các em được nghỉ” mà không giải thích lý do. Ngơ ngác, lũ trẻ từng nhóm lục đục kéo nhau về, mà không dám hỏi khi thấy cô như sắp khóc. Về gần đến nhà, dọc quốc lộ, song song là đường sắt, giật mình thấy rất nhiều người bằng đủ phương tiện đang hối hả về xuôi. In sâu trong ký ức là hình ảnh một nhóm bộ đội đang nghỉ bên đường, đầu, người quấn băng còn đầy máu tươi, ngực áo có chữ “Kiên Cường”. Mấy chị em quàng về nhà, mẹ bảo: “Tàu đánh mình rồi”. Đó là ngày 17/2 đen tối.

Nhà tôi ở Phố Lu, một đầu mối trung chuyển, cách thị xã Lào Cai một tầm đạn pháo, mấy ngày liền đứng cửa, thấy người chạy loạn huyên náo, xe cộ ngổn ngang mà kinh hãi vô cùng. Tiếng pháo vẫn rền không dứt. Mấy ngày sau (20/2), cứ 5 gia đình ở lâm trường bộ được một xe tải đưa về Yên Bái, dọc đường mẹ cứ khóc: “Tao còn đứa em ở Bát Xát, dì Tuyết đấy, không biết có chạy được không?. Cha tôi ở lại chiến đấu cùng những người đàn ông khác, với trách nhiệm là đại đội trưởng tự vệ của lâm trường bộ. Ở Ty Lâm nghiệp Hoàng Liên Sơn được hai ngày, mấy mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lên chuyến tàu chật cứng về quê, vì khi đi chỉ mang theo được đùm gạo, bu gà, biết lấy gì mà ăn. Rõ là cảnh chạy loạn. Quê tôi - một tỉnh đồng bằng Bắc bộ giàu truyền thống, biết đùm bọc yêu thương nhau, nhà tôi về cả làng ra đón, rồi lục đục gia đình các bác, các dì đều về đầy đủ, cả gia đình dì Tuyết nữa. Ơn trời, không thiếu một ai. Các bác ruột, cậu ruột họp, phân công nhau sắp xếp nơi ăn chốn ở cho anh em trên Lào Cai về.

Lo cho cha quá, cỡ nửa tháng sau, một hôm bác ruột tôi líu ríu chạy dọc đường làng, vừa chạy vừa gọi: “Tâm, Thu, Kiên, Tuấn ơi… Bố chúng mày về kìa”. Mấy chị em ùa ra ôm chầm lấy cha, mừng không tả, mẹ tôi sững lại, đánh rơi chiếc ấm, tôi thấy mắt mẹ lấp lánh những giọt vui, gia đình đoàn tụ. Cha tôi kể, ở thêm một tuần trực chiến, nhà còn mấy con lợn, đem mổ thết đãi anh em, vì không cũng mất sạch, thực hiện “vườn không, nhà trống”, có gì đem chôn giấu được, thì chôn giấu, nhà mở toang cửa, tủ không khóa… nhà nào cũng vậy. Chưa đánh đấm được trận nào thì được lệnh rút quân toàn tuyến, tất cả tuần tự men theo sông Hồng về Yên Bái, bàn giao vũ khí, khí tài theo từng đơn vị, rồi được trên cho phép về quê, bao giờ có điện tín liên lạc thì tập hợp. Sum họp với gia đình đâu được gần tháng, cha tôi lặng lẽ đi, ông không chào chúng tôi vì sợ bịn rịn.

Rồi cuộc chiến tranh đi qua, các gia đình lần lượt trở về Lào Cai, lũ trẻ chúng tôi trở về sau cùng, khi khai giảng năm học mới. Giặc tràn qua Phố Lu 5 km, những nơi chúng qua, đường xá, cầu cống, công sở, nhà cửa bị ốp mìn phá sạch, nhà tôi không hiểu sao vẫn còn nguyên vẹn.

Nhà tôi tiện đường, hơn nữa rộng lắm, vườn cũng rộng, đã thế lại còn có giếng khơi, nước đầy ăm ắp, uống vào ngọt lịm. Vì vậy, nhà tôi như một trạm trung chuyển, hôm nào cũng có hàng đoàn xe quân đội đỗ thành hàng dài trước cửa, hết trung đoàn vận tải Quân khu 2, tiểu đoàn vận tải Quân đoàn 6 (sau là Quân đoàn 29), đại đội vận tải của Sư đoàn 316, Sư đoàn 345… chờ chuyển lương, quân. Đã thế, đối diện là hóa trường đường sắt, hàng ngày những đoàn tàu chở lương thực, vũ khí, khí tài… xếp la liệt chờ chuyển tải, phân phối cho từng đơn vị.

Tôi được cha phân công đun nước phục vụ, ngày nào cũng mấy nồi tướng, bưng lên đãi khách, được hóng chuyện, mới biết mờ sáng 17/2, thám báo Trung Quốc mò sang giết sạch một đội nữ Lâm sinh Bản Phiệt, khi mọi người còn say trong giấc ngủ; biết tại Bản Vược (Bát Xát), Trung Quốc làm cầu phao đã tính toán kỹ, thả trôi một đầu sang sông Hồng là vừa khít bờ Việt Nam, xe tăng cứ thế tràn qua; biết giặc lao cầu phao qua sông Nậm Thi, qua chiếc nào, ta bắn thủng chiếc đó; biết công an vũ trang Đồn cửa khẩu Lào Cai giật bộc phá, phá hủy Cầu Kiều để ngăn giặc; biết ta phản pháo cháy hết rừng cao su bên bờ Trung Quốc; biết tự vệ Lào Cai anh dũng chiến đấu ở pháo đài Lào Cai và thoát ra bằng cách nào… Qua lời kể của người về từ chiến trận, chiến sự mùa xuân năm 1979 đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ tôi, đến nay vẫn không hề phai nhạt.

Vết thương tuổi thơ

Mùa xuân năm 1979, cậu bé Lương Hữu Sự khi ấy mới 10 tuổi. Nhà ở xóm Sơn Đạo, khu phố Cốc Lếu, thị xã Lào Cai (sau Chi cục Thuế thành phố Lào Cai hiện nay) - thị xã giáp biên, nên dường như Sự cảm nhận được chiến tranh sớm hơn. Sau 40 năm, kể lại về ký ức của mùa xuân năm ấy, anh Sự say sưa như đang trở về những ngày thơ ấu khủng khiếp ấy.

Anh Lương Hữu Sự.
Anh Lương Hữu Sự.

5 giờ sáng 17/2/1979, khi cả nhà đang ngủ, bỗng tiếng pháo bắn sang đồi Thanh Niên kèm tiếng nổ chát chúa, bố mẹ tôi vùng dậy, gọi 3 anh em và hét to: Trung Quốc bắn Việt Nam đấy, rồi tất cả chạy sang hầm trú ẩn. Kể đến đây, anh Sự giãi bày: Tại sao có hầm trú ẩn? Năm 1978, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có những vấn đề, Trung Quốc kêu gọi tất cả người Hoa về nước. Lo sợ chiến tranh xảy ra, mỗi gia đình ở thị xã Lào Cai đào một hầm trú ẩn (hầm chữ A, hầm mái bằng), mỗi nhân khẩu phải nộp 5 mũi chông bằng tre vót. Do tôi là con cả, nên được theo bố đi chặt tre, xem ông vót 25 mũi chông nộp cho chính quyền để cắm dọc bờ sông Hồng.

Ở trong hầm trú ấn vẫn nghe rõ tiếng đạn pháo nổ không ngớt. Một lúc sau, thấy tình hình tạm ổn, mẹ tôi trở về nhà nấu cơm, nhưng cả nhà không ai ăn nổi vì sợ hãi. Khi trời sáng hẳn, tiếng còi ủ báo giờ làm việc của Nhà máy Điện Lào Cai vẫn cất lên bình thường. Với những người dân thị xã biên giới Lào Cai, tiếng còi ủ đã ăn sâu vào tiềm thức, với tôi nghe thấy tiếng còi ủ là chuẩn bị đến trường. Nhưng sáng hôm đó, bố kiên quyết không cho anh em tôi đi học. Đến 8 giờ sáng, khi có lệnh sơ tán, mẹ tôi địu em út trên lưng, dắt tôi và em gái đi qua đồi máy gạt (đồi Trung tâm Giống cây trồng Lào Cai hiện nay) để sang đường mới (đường Nhạc Sơn hiện nay) để xuôi xuống cầu số 4 Kim Tân. Bố tôi ở lại, tham gia dân quân để bảo vệ kho của Hợp tác xã cơ khí 19/8. Kể đến đây, anh Sự dừng lại hồi lâu: Nghĩ lại thấy sợ vô cùng, vừa đi qua đồi máy gặt thì đạn pháo Trung Quốc bắn tới, 4 mẹ con chạy miết, thương cho em gái, còn nhỏ vừa chạy, vừa thở không ra hơi. Khi đến trạm gác xã Nam Cường, tôi đã thấy xe chở bộ đội bị thương đến đó. Do đến trưa, sợ 3 anh em tôi đói, mẹ bảo tôi trông hai em, còn bà đi nấu cơm nhờ. Gạo vừa đổ vào nồi, thì một quả đạn pháo bắn cách đó không xa. Thế là, mẹ tôi phải đổ gạo vào rá cho dóc nước, rồi cho vào túi mang đi. Đi tiếp một đoạn, thì thấy bố tôi ngược lên, tay cầm theo dao và cặp lồng cơm. Sau này tôi mới biết, khi thấy đạn pháo bắn lên đồi máy gạt, bố tôi lo lắng nên đi tìm. Ông mừng đến phát khóc, ôm vội lấy anh em tôi, rồi bón cho các con từng thìa cơm. Ăn xong, cả nhà vội vã đi bộ xuống đập tràn, ở nhờ nhà của người Tày, nấu cơm ăn, chờ trời tối tiếp tục lội suối qua Quốc lộ 4E để xuôi về Bến Đền. Đến cầu treo Bến Đền, người kín như nêm, thấy vậy, bố mẹ dắt tay chúng tôi lội qua suối (do mùa này suối cạn). Do đi vào ban đêm và không được dùng đuốc vì sợ địch phát hiện sẽ dùng pháo kích, nên người đi sau phải bám vào người đi trước. Đi qua ngã ba (ngã ba Xuân Giao hiện nay), cả nhà tôi may mắn được lái xe “gấu” của Mỏ Apatit cho đi nhờ ra đến bến phà Phố Lu. Đến đây, lại tắc đường do dòng người “chạy Tàu” đông đúc và hỗn loạn. Lần này, phà không vào thẳng mũi mà chỉ cho một góc phà cập bờ. Ai cũng muốn được lên phà, nên tình hình hỗn loạn, mất kiểm soát, thấy vậy, bố tôi lội xuống sông, nước đến ngang ngực, bế mẹ và 3 anh em lên phà.

Sang bên bờ, bố mẹ nhặt bã mía làm củi để nấu cơm. Ngặt nỗi, phải chờ nhà này nấu xong thì nhà khác mới có nồi để nấu. Thành ra, chúng tôi bị đói, em gái khóc ngất, bố thấy vậy liền xách cặp lồng đi xin những nhà nấu cơm xong trước để về bón cho chúng tôi. Chờ đến hơn một ngày, cả gia đình lên tàu xuôi về Yên Bái. Ở Yên Bái 2 ngày, bố tôi ra trạm cứu tế để nhận gạo, bột mỳ ăn trong ngày, thấy không ổn, ông quyết định đưa cả nhà lên tàu về quê. Do là thợ cơ khí, nên về quê, bố tôi mở lò rèn, nhận sửa cày, cuốc cho người con trong xã để đổi lấy lương thực, nuôi gia đình qua ngày đoạn tháng.

Khi có thông tin Trung Quốc rút về nước, mẹ tôi một mình đi tàu lên Lào Cai để thăm lại nhà. Quay trở về, mẹ bảo: Nhà mình không sao, nhưng đồ đạc mất hết, chỉ còn một số giấy tờ, trong đó có giấy khai sinh của anh em tôi và chút quần áo. Cuối năm 1979, gia đình tôi quyết định lên tàu trở về Lào Cai, đến Làng Giàng, cả nhà xuống đây và ở nhờ khu tập thể Nhà máy sắn (khu Xuân Tăng, thị xã Cam Đường) và đón tết ở đó. Thời gian sau, bố mẹ tôi ra khu bờ hồ Xuân Tăng, san gạt đất, chặt cây, đan liếp tre làm nhà. Hằng ngày, bố mẹ đan bu gà, làm chổi để bán cho người dân, chúng tôi tiếp tục được cắp sách đến trường.

Năm 1982, có lệnh điều động dân cư, xây dựng xã biên giới, cả gia đình chuyển lên khu Kim Hải, xã Đồng Tuyển. Khu vực nhà cũ của gia đình tôi trở thàn vành đai trắng, chỉ được phép làm ruộng, làm nương. Mỗi lần làm nương, tôi đều thăm nơi “chôn rau cắt rốn” của mình.

Mỗi lần, khi nhìn tờ lịch ngày 17/2, anh Kiên, anh Sự và nhiều người khác cảm thấy nỗi ám ảnh và sợ hãi trở về, đó là vết thương tuổi thơ và đó là một thời để nhớ.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Những vấn đề đặt ra trong sửa chữa, vận hành các hồ thủy lợi

Những vấn đề đặt ra trong sửa chữa, vận hành các hồ thủy lợi

Sau mùa mưa lũ năm 2024, hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng rất lớn. Với sự vào cuộc tích cực của chính quyền các địa phương cùng ngành nông nghiệp và môi trường trong công tác sửa chữa, đến nay, hầu hết hồ thủy lợi đã vận hành trở lại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hồ thủy lợi bị hỏng nặng hoặc bồi lắng phải dừng hoạt động để sửa chữa lớn. Cùng với đó, việc kiểm định để xác định mức độ an toàn hồ, đập đang gặp khó khăn do thiếu kinh phí, đặt ra những lo ngại khi mùa mưa lũ cận kề.

Lính thợ trên công trường tái định cư Sàng Ma Sáo

Lính thợ trên công trường tái định cư Sàng Ma Sáo

Những ngày qua, trên công trường xây dựng khu tái định cư tại thôn Mà Mù Sử 1, xã Sàng Ma Sáo (Bát Xát) vẫn rộn vang tiếng máy. Với tinh thần “vượt nắng, thắng mưa”, những người lính thợ thuộc Tổng Công ty 789 (Bộ Quốc phòng) cùng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 174, Sư đoàn 316, Quân khu 2 ngày đêm miệt mài, khẩn trương hoàn thiện dự án để đồng bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai sớm có nơi ở mới.

Người dân lo lắng kho hàng chứa hóa chất sát khu dân cư

Người dân lo lắng kho hàng chứa hóa chất sát khu dân cư

Thời gian vừa qua, người dân ở tổ dân phố số 4, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai phản ánh việc một kho hàng ở Khu Công nghiệp Đông Phố Mới đang được cải tạo, sửa chữa để chứa hóa chất. Điều người dân băn khoăn là nhà kho này chỉ cách khu dân cư một con đường.

Trồng sâm trên đỉnh mây ngàn

Trồng sâm trên đỉnh mây ngàn

Pa Cheo (Bát Xát) là một trong những xã khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất tỉnh. Thời gian gần đây, với khát vọng thoát nghèo, vươn lên làm giàu, một số hộ người Mông ở Pa Cheo đã mạnh dạn thử nghiệm trồng dược liệu quý như sâm Lai Châu, sâm Ngọc Linh, tam thất hoang, thất diệp nhất chi hoa để nâng cao thu nhập. Xã Pa Cheo đã thoát khỏi "3 không", đang bước vào ngày mới đầy hy vọng.

Lược sử về tuyến giao thương Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam

Lược sử về tuyến giao thương Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam

Cách đây hơn 150 năm từ khi Đuyprê (dupre) Tổng Chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tìm ra tuyến đường thủy vận chuyển hàng hóa từ Cửa Cấm (Hải Phòng) vào Hà Nội và ngược sông Hồng lên Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc). Từ đó đến nay, dòng sông Hồng có vai trò quan trọng trong kết nối hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Kết nối du lịch các tỉnh dọc sông Hồng

Kết nối du lịch các tỉnh dọc sông Hồng

Với vị trí điểm đầu - nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt, Lào Cai đã có nhiều sáng kiến, giải pháp để kết nối, thúc đẩy phát triển du lịch, thu hút du khách trong và ngoài nước trải nghiệm du lịch lưu vực sông Hồng.

Ngày 7: Một ngày chữa lành ở Yên Bái

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận: Ngày 7: Một ngày chữa lành ở Yên Bái

Hết địa phận tỉnh Phú Thọ là tròn 1 tuần ngược sông Hồng, đi qua biết bao thắng cảnh, điểm du lịch hấp dẫn, làng nghề cổ xưa, chúng tôi có mặt ở Yên Bái để tiếp tục khám phá những di tích lịch sử, các điểm du lịch tâm linh và trải nghiệm du lịch chăm sóc sức khỏe.

Chuyện ghi ở “vùng lõm sóng” Pờ Hồ

Chuyện ghi ở “vùng lõm sóng” Pờ Hồ

Nhịp sống ở Pờ Hồ - thôn xa và khó khăn nhất xã Trung Lèng Hồ (Bát Xát) cứ chầm chậm như kéo chúng tôi trở lại với khung cảnh ở nhiều thôn vùng cao Bát Xát cách đây 15, 20 năm. Sóng viễn thông yếu, chập chờn nên nơi đây nằm trong danh sách “vùng lõm sóng”, câu chuyện chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0 với bà con xem ra còn xa vời.

Ngày 5: Hoàng hôn bên bờ sông Hồng

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 5: Hoàng hôn bên bờ sông Hồng

Trên hành trình ngược dòng sông mẹ, chúng tôi dành trọn 2 ngày ở Hà Nội vì mảnh đất này có quá nhiều địa điểm có thể trải nghiệm, khám phá. Sau ngày đầu tiên tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng và lang thang phố cổ, chúng tôi quyết định trải nghiệm một đêm cắm trại bên bờ sông Hồng.

Ngày 4: Bảo tàng sống về văn hóa sông Hồng

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 4: Bảo tàng sống về văn hóa sông Hồng

Với dòng chảy uốn lượn ôm trọn Thủ đô Hà Nội, sông Hồng không chỉ tạo nên bề dày văn hóa - lịch sử mà còn góp phần hình thành cảnh quan, bồi đắp phù sa màu mỡ cho đất nông nghiệp, kết nối giao thông đường thủy với các địa phương. Dòng chảy sông Hồng còn có vai trò kết nối quá khứ với hiện tại, giữa các không gian cũ - mới của đô thị và kết nối các hoạt động của người dân địa phương với trải nghiệm của khách du lịch trong và ngoài nước.

Ngày 3: Hoài niệm “nét xưa” Phố Hiến

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 3: Hoài niệm “nét xưa” Phố Hiến

Nằm ở trung tâm của đồng bằng châu thổ sông Hồng, nhắc tới Hưng Yên chắc hẳn nhiều người đều nghĩ đến câu “nhất Kinh Kỳ, nhì Phố Hiến”. Nơi đây từng là thương cảng tấp nập người mua, kẻ bán, “tiểu Tràng An”, ngày nay là vùng đất mang đặc sản đậm tình quê, là nét xưa hoài cổ bình yên và mộc mạc.

Ngày 2: Về làng Vũ Đại thăm nhà Bá Kiến

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 2: Về làng Vũ Đại thăm nhà Bá Kiến

Làng Vũ Đại nổi tiếng trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao thực tế được lấy nguyên mẫu từ làng Đại Hoàng, thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đây cũng là địa điểm tiếp theo trong hành trình du lịch ngược sông Hồng mà chúng tôi tìm đến.

Ngày 1: Từ nơi sông Hồng hòa nhịp cùng biển cả

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 1: Từ nơi sông Hồng hòa nhịp cùng biển cả

Chìm đắm trong vẻ đẹp bất tận của dòng sông mang sắc đỏ, hành trình dài đưa chúng tôi đến cuối nguồn - nơi sông Hồng hòa nhịp cùng biển cả, rồi lại ngược dòng trở về Lào Cai - nơi đầu nguồn sông mẹ. Sông Hồng còn nhiều tên gọi khác như: Nhị Hà, Hồng Hà, sông Cái, sông Thao, mỗi vùng đất dòng sông chảy qua mang một vẻ đẹp riêng. Hành trình cả ngàn kilômét đi qua 9 tỉnh, thành phố, dòng sông mẹ như nhạc trưởng dẫn dắt bản giao hưởng của thiên nhiên, đưa chúng tôi từ bất ngờ này đến thú vị khác.

Khẩn trương tái định cư cho các hộ dân khu vực sạt lở ở phường Nam Cường

Khẩn trương tái định cư cho các hộ dân khu vực sạt lở ở phường Nam Cường

Đến thời điểm hiện tại, các cơ quan chức năng của thành phố Lào Cai đã chuẩn bị mặt bằng, xác định vị trí các lô đất tái định cư để làm thủ tục bàn giao cho các hộ dân theo quy định. Tuy nhiên, để sớm thực hiện việc bàn giao đất thì cần sự phối hợp, đồng thuận của các hộ dân.

Bài 4: Lớp học bên bờ sóng

Bài 4: Lớp học bên bờ sóng

Em yêu lắm Trường Sa ơi/Yêu cát trắng và yêu biển xanh/Yêu những con tàu cùng nhau ra khơi, yêu những con đường trải dài cây xanh/Và em yêu lắm những cây ba cua hoa xinh tươi khoe sắc giữa trời/Yêu cây phong ba vươn mình trong gió luôn luôn hiên ngang giữ lấy kiên trung…

Xây dựng vùng biên ấm no, hạnh phúc

Xây dựng vùng biên ấm no, hạnh phúc

Từ một vùng đất xa xôi, nghèo khó, mang trên mình bao "vết thương" do chiến tranh để lại, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, mạnh mẽ đi lên qua mỗi thời kỳ, hôm nay, vùng biên cương của Tổ quốc đang căng tràn nhịp sống mới phồn thịnh, ấm no.

Theo bước chân thợ điện cao thế

Theo bước chân thợ điện cao thế

Vất vả, nhọc nhằn, thậm chí rủi ro có thể xảy đến với bản thân bất cứ lúc nào nhưng những người thợ điện quản lý vận hành đường dây cao thế vẫn luôn gắn bó, tận tâm với nghề. Dù sáng sớm tinh mơ hay khi mặt trời đã xuống núi, dù nắng như đổ lửa hay bão tố bịt bùng, những bóng áo cam với khuôn mặt sạm đen vẫn sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ để dòng điện luôn thông suốt.

fb yt zl tw