LCĐT - Trở lại Nậm Cang vào mùa lúa bắt đầu chín. Tuyến đường như dải lụa chạy giữa “sóng vàng” trải dài tít tắp, đưa tôi ngược miền ký ức về Nậm Cang cách đây 10 năm trước. Giờ đây, cái tên xã Nậm Cang chỉ còn là địa danh của thôn, xã Nậm Cang đã sáp nhập với xã Nậm Sài và được đặt tên mới là xã Liên Minh (thị xã Sa Pa).
Kể từ lần đầu đặt chân đến vùng đất “nước trong” (tiếng Mông - Nậm Cang có nghĩa là “nước trong”), hôm nay tôi mới có dịp trở lại Nậm Cang vào một ngày nắng đẹp. Nắng vàng như rót mật trên những thửa ruộng bậc thang tuyệt đẹp, cứ ngỡ như đang lạc bước ở chốn thần tiên nào đó. Tuyến đường nhỏ băng qua những triền thung, những tràn ruộng bậc thang mùa lúa chín đưa tôi cùng người bạn đồng hành đến thôn Nậm Cang. Mặc dù sau hơn 2 năm bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, nhưng tôi vẫn cảm nhận được một Nậm Cang căng tràn sức sống so với lần trước đến. Những tuyến đường bê tông êm thuận nối dài đến tận thôn, những nếp nhà của đồng bào Dao đỏ vẫn mang đậm phong cách truyền thống, nhưng trong nhà đã có nhiều thiết bị sinh hoạt hiện đại. Bên hiên ngôi nhà vách gỗ truyền thống, các bà, các chị dân tộc Dao đỏ vẫn miệt mài ngồi thêu thổ cẩm, may áo mới.
Dẫn chúng tôi đi thăm lại 3 thôn thuộc địa danh của xã Nậm Cang trước đây, ông Vù A Trùng, Bí thư Đảng ủy xã Liên Minh, là người Mông chính gốc Nậm Cang vô cùng hào hứng giới thiệu các mô hình phát triển kinh tế từ nuôi cá nước lạnh, đến homestay và những nghệ nhân còn đam mê giữ nghề truyền thống. Chúng tôi ghé thăm cơ ngơi của ông Phàn Dào Phẩu - người đang cần mẫn đốt than, nung bạc và tỉ mẩn chạm khắc hoa văn trên bạc. Đau đáu với nghề truyền thống, cũng là để có thêm sản phẩm phục vụ khách du lịch khi đến Nậm Cang tham quan, trải nghiệm, ông Phẩu đã làm riêng một gian nhà để chạm bạc. Ông Phàn Dào Phẩu tâm sự: Đàn ông người Dao không biết “kéo bạc” thì không phải là đàn ông nữa. Bởi vậy, bất kể đàn ông dân tộc Dao đỏ nào sau khi làm lễ cấp sắc, đều biết chạm khắc bạc. Người thì tự học ở những bậc cao niên trong thôn, người thì được bố mẹ truyền dạy… Thế nhưng, để theo nghề chạm khắc bạc đến lúc tuổi xưa nay hiếm thì hẳn những người như ông Phàn Dào Phẩu ở Nậm Cang chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ông Phàn Dào Phẩu bộc bạch: Lớp thanh niên trong thôn giờ không còn mấy ai mặn mà với nghề kéo bạc cực nhọc, tỉ mẩn… Thế nên, tôi cố gắng duy trì và giữ gìn để thế hệ mai sau còn biết được cha ông mình có một nghề truyền thống độc đáo. Hơn nữa, cũng là do tôi yêu thích được thể hiện những cung bậc cảm xúc và lưu giữ bằng những tác phẩm trên các sản phẩm bạc (nhẫn đeo tay, vòng cổ, khuy áo truyền thống của phụ nữ dân tộc Dao...).
Tôi ngồi rất lâu để “mục sở thị” ông Phàn Dào Phẩu kéo bạc. Ông Phẩu cứ chậm rãi, chậm rãi qua từng công đoạn, từ những đồng bạc, xu bạc cổ, qua bàn tay tài hoa và nghệ thuật chạm khắc đã tạo nên sản phẩm trang sức độc đáo. Trong mỗi sản phẩm do ông Phẩu chế tác đều có hoa văn truyền thống của dân tộc Dao như hình mặt trời, hình cây thông, hình bông lúa, hình ruộng bậc thang, hoa cỏ, chim muông… đều được khéo léo khắc chạm vào bạc.
Rời thôn người Dao đỏ, chúng tôi đến thôn văn hóa Nậm Than, 1 trong 3 thôn của xã Nậm Cang cũ, nơi có 150 hộ đồng bào Mông trắng sinh sống. Mặt trời đã đứng bóng, ông Vàng A Trư vẫn miệt mài nổi lửa lò rèn để trình diễn cho chúng tôi xem kỹ thuật rèn nông cụ truyền thống của đồng bào Mông Nậm Than. Vừa rèn nông cụ, ông Vàng A Trư vừa tâm sự: Tôi học được nghề rèn dao, cuốc và một số dụng cụ làm nông nghiệp khác từ người già trong thôn, sau đó tôi mở lò rèn vừa giữ nghề truyền thống, vừa phục vụ nhu cầu nông cụ cho các gia đình ở Nậm Cang và một số vùng lân cận.
Đổ thêm than vào bễ rèn, ông Trư bảo, loại than nung sắt phải lựa than củi đốt từ cây dẻ, có vậy than mới chắc, nhiệt độ đảm bảo để nung. Tiếng búa nện đều đặn lên thanh sắt đã nung đỏ, một lúc sau đã hoàn thành sản phẩm... Ông Vàng A Trư tâm sự, cũng do dịch bệnh Covid-19, mà lò rèn của gia đình không còn hoạt động đều như trước đây. Hơn nữa, giờ đây người Mông sống ven suối Nậm Than đang bận rộn với phát triển nghề mới, có thu nhập cao hơn - đó là nuôi cá nước lạnh.
Do ở đầu nguồn đại ngàn, nơi có nhiều mạch nguồn trong vắt, mát lạnh, nên rất thích hợp để nuôi cá nước lạnh. Từ định hướng của cấp ủy, chính quyền địa phương, đặc biệt nhờ “máu liều” của ông Tẩn Chằn Quyên - người đầu tiên đem giống cá “đại gia” về nuôi trên đất Nậm Cang, thấm thoát cũng đã gần 10 năm, giờ đây phong trào nuôi cá hồi, cá tầm ở Nậm Cang trở nên sôi động hơn bao giờ hết.
Bí thư Đảng ủy xã Liên Minh Vù A Trùng bộc bạch: Trên địa bàn các thôn của xã Nậm Cang cũ hiện có khoảng 80 trại nuôi cá nước lạnh. Nhà nào ít cũng nuôi 2-3 bể cá, nhà nhiều cả hệ thống hàng chục bể cá... Hộ nuôi nhiều và có thâm niên lâu nhất ở Nậm Cang không ai khác chính là ông Tẩn Chằn Quyên. Không chỉ là người tiên phong đưa giống cá nước lạnh về nuôi, ông Quyên còn mời kỹ sư thủy sản lên trực tiếp chỉ đạo sản xuất cá giống, cá thương phẩm và trả thù lao với mức 15 triệu đồng/tháng.
Tò mò về nghề nuôi cá nước lạnh ở Nậm Cang, chúng tôi ngược dốc núi, men dọc hai bên suối Nậm Than, không khỏi ngỡ ngàng khi ở đây lại có nhiều hệ thống bể nuôi cá hồi dọc ven suối đến vậy. Nhiều gia đình đã có “của ăn của để” từ nuôi cá nước lạnh. Ông Vù A Trùng cũng là một trong những hộ nuôi cá hồi ở Nậm Than, mặc dù mới nuôi từ năm 2020, năm ngoái, với 8 bể cá, ông thu hoạch hơn 10 tấn cá, trong đó có 2 tấn bán được giá 250 nghìn đồng/kg, còn lại do dịch bệnh Covid -19 nên giá bán thấp hơn, chỉ được 160 -170 nghìn đồng/kg. Ông Vù A Trùng trải lòng: Nhận thấy lợi thế từ điều kiện tự nhiên, với trách nhiệm của đảng viên, tôi đã bàn với gia đình đầu tư nuôi cá hồi thương phẩm để các đảng viên và người dân làm theo. Tuy là giống cá dễ nuôi, nhưng cũng không ít rủi ro, chỉ cần sơ sểnh một chút là có khi trắng tay...
Trước đây, Nậm Cang biết đến là xã giàu, bởi có diện tích thảo quả cho thu hoạch rất lớn. Có những giai thoại người ta kể về Nậm Cang, đó là có không ít hộ dân, sau mùa thu hoạch thảo quả đã buộc tiền và cẩn thận cất đi... Điều này là có thật, bởi theo ông Vù A Trùng kể lại, người dân Nậm Cang trước đây canh tác thảo quả tít trong rừng sâu. Do cách trung tâm huyện (nay là thị xã), đường giao thông cũng không thuận tiện như bây giờ, nên các hộ đều có thói quen cất tiền vào trong hòm gỗ, chum sành. Nhiều gia đình còn “tích trữ” tiền cả chục năm, chính vì thế mới có câu chuyện “tiền treo gác bếp”.
Giờ thì người dân vẫn khoanh nuôi, bảo vệ rừng và canh tác một phần diện tích thảo quả, nhưng đã biết cách làm kinh tế từ nuôi cá nước lạnh. Dọc đường đi vào các thôn ở xã Nậm Cang cũ, chúng tôi thấy nhiều gia đình mở rộng hoặc xây mới bể cá để chuẩn bị cho vụ nuôi mới.
Bí thư Đảng ủy xã Liên Minh Vù A Trùng cho biết thêm: Ngoài nuôi cá nước lạnh, chúng tôi xác định tập trung phát triển du lịch cộng đồng. Xã đang khuyến khích người dân làm du lịch, trong đó, chủ động khôi phục và bảo tồn các nghề thủ công truyền thống như chạm khắc bạc, rèn nông cụ, đan gùi, thêu thổ cẩm... để thu hút khách du lịch. Không chỉ có di sản ruộng bậc thang, trong tương lai, xã Liên Minh cũng vận động bà con phát triển làng nghề truyền thống gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và thêm nghề mới như trải nghiệm hái lá thuốc và tắm lá thuốc để khách du lịch tham quan, trải nghiệm.
Trở lại Nậm Cang lần này, được đi, được nghe và tận mắt chứng kiến, tôi không khỏi bất ngờ về sự đổi thay của vùng đất nơi “thâm sơn cùng cốc”. Từ một xã Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới, xã nông thôn mới đầu tiên của tỉnh, đến nay, dù đã sáp nhập với xã Nậm Sài, nhưng cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Nậm Cang cũ vẫn luôn đoàn kết, cùng với xã Nậm Sài tiếp tục “liên minh”, chung sức, đồng lòng xây dựng xã Liên Minh ngày càng khởi sắc theo mong mỏi của các thế hệ lãnh đạo, bậc cao niên và Nhân dân khi quyết định lựa chọn tên mới cho hai xã này.
Nội dung: Thanh Nam
Trình bày: Ngọc Luyến