Bài 1: Những điều trông thấy…
LCĐT - “Trước tiên, phải khẳng định cây chè là một trong những cây nông nghiệp chủ lực của tỉnh, không thể bỏ cây chè. Trước thực trạng người dân không còn mặn mà với cây chè, các địa phương và doanh nghiệp cần phải vào cuộc, giải quyết dứt điểm những vướng mắc trên vùng chè. Để cây chè có tính cạnh tranh hơn, mang lại giá trị kinh tế cao, bằng nhiều cách phải tổ chức lại sản xuất theo tiêu chuẩn thị trường để đáp ứng được thị trường hiện nay” - ông Tô Mạnh Tiến, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẳng định.
Lào Cai hiện có hơn 6.500 ha chè với hơn 8.000 hộ tham gia trồng chè. Mỗi năm, người dân thu về khoảng 250 tỷ đồng từ thu hái chè búp tươi, góp phần ổn định thu nhập, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. Một trong những địa phương có vùng chè hàng hóa lớn nhất tỉnh, liên kết sản xuất ổn định trong thời gian dài là huyện Mường Khương. Diện tích trồng chè tại Mường Khương liên tục được mở rộng qua các năm, từ các xã hạ huyện như Bản Lầu, Bản Xen, Lùng Vai tới các xã vùng cao như Cao Sơn, La Pan Tẩn, Tả Thàng. Hiện nay, Mường Khương có tới hơn 4.000 ha chè, đây cũng là vùng chè hàng hóa lớn nhất tỉnh.
Vùng chè hàng hóa của huyện Mường Khương được duy trì qua nhiều năm. |
Xã Lùng Vai có thể coi là “cái nôi” của vùng chè huyện Mường Khương. Tại địa phương này, người dân đã làm quen với cây chè từ 48 năm trước (cây chè bắt đầu được trồng hàng hóa từ năm 1973). Sau gần nửa thế kỷ, cây chè vẫn giữ được vị thế của mình, vẫn là cây trồng thế mạnh, giúp người dân nơi đây có thu nhập ổn định. Gia đình chị Hoàng Thị Xin, thôn Na Hạ, xã Lùng Vai có hơn 4.000 m2 chè. Nương chè này thậm chí nhiều tuổi hơn chị Xin, được trồng từ thời ông của chị và chị Xin là đời thứ 3 canh tác trên nương chè này. Theo chị Xin, giai đoạn cao điểm, mưa nắng thuận hòa thì mỗi tháng chị có thể hái 2 lứa chính và 1 lứa phụ. Toàn bộ chè búp tươi được Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình thu mua theo hợp đồng sản xuất với giá trung bình 6.500 - 7.000 đồng/kg. Theo kinh nghiệm trồng chè hàng chục năm nay, chị Xin đánh giá: Để duy trì vùng chè này, cứ mỗi khi có cây chè nhiễm bệnh, bị chết thì gia đình đi xin bầu chè giống về trồng thay thế để đảm bảo mật độ. Cây chè chưa bao giờ mất mùa, không cho thu hoạch. Nắng hạn thì búp nhỏ, năng suất giảm đi, mưa đá thì cũng chỉ ảnh hưởng 1 lứa, nên năm nào cây chè cũng mang về nguồn thu từ 20 đến 30 triệu đồng tùy vào thời tiết. Nói chung cây chè mang lại thu nhập không cao nhưng ổn định.
Một trong những lợi thế rõ nhất trong sản xuất chè đó là tuổi thọ cây chè cao, chu kỳ thu hoạch rất dài và khả năng thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Mường Khương hiện nay đã thu hút được 3 doanh nghiệp chế biến chè, tham gia liên kết sản xuất, có hợp đồng tiêu thụ chè búp tươi cho bà con nên người dân vẫn luôn vững tin vào cây trồng này, hằng năm, kế hoạch trồng chè tại Mường Khương đều vượt kế hoạch tỉnh giao. Theo ông Lê Thanh Hoa, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mường Khương, cây chè luôn là cây hàng hóa chủ lực của huyện. Để nâng cao giá trị từ cây trồng này, ngành nông nghiệp huyện đang nỗ lực kêu gọi doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, sản xuất chè theo tiêu chuẩn chất lượng cao, chè hữu cơ để đưa chè Mường Khương tiếp cận tới những thị trường tiêu dùng cao cấp hơn. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền người dân đầu tư thâm canh, sản xuất theo quy trình an toàn, nâng cao năng suất cũng được chú trọng để tăng hiệu quả kinh tế.
Theo tính toán của cơ quan chuyên môn, tại vùng chè Lào Cai, mỗi ha chè bình quân mang lại nguồn thu 50 triệu đồng/năm. Với con số 50 triệu đồng/ha/năm, có thể nhận định cây chè chưa thể là cây trồng để người dân làm giàu, tuy nhiên, đây cũng là con số khả quan, góp phần không nhỏ trong việc giúp người dân vùng chè thoát nghèo, ổn định kinh tế. Một số vùng chè đầu tư thâm canh, sản xuất hiệu quả như các xã Lùng Vai, Bản Lầu, Bản Xen (huyện Mường Khương), người dân có thể thu về 60 - 70 triệu đồng/ha từ cây chè. Bởi vậy, có thể đánh giá cây chè mang lại giá trị kinh tế ở mức trung bình khá với nông nghiệp nông thôn.
Thế nhưng, khi nông nghiệp chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh từ các loại cây trồng hàng hóa khác, điển hình như cây quế, việc giữ vững được vùng chè nguyên liệu đòi hỏi sự thay đổi, thích ứng trong tổ chức sản xuất. Theo ông Tô Mạnh Tiến, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc lựa chọn cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao trên đất canh tác là quyền của người dân. Tuy nhiên, việc trồng cây quế (cây lâm nghiệp) thay thế cây chè (cây nông nghiệp) là không đúng về mặt quy hoạch. Ngành nông nghiệp không khuyến khích người dân chuyển đổi cây chè sang các cây trồng khác. “Cây chè là cây trồng chủ lực của một số địa phương, nên cần phải giữ vùng chè, thế nhưng, song song với đó, phải có những giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân trồng chè” - ông Tiến nhấn mạnh.
Thực tế cho thấy, vùng chè Lào Cai có “tỷ lệ đông đặc” cây chè chưa cao, kỹ thuật đầu tư thâm canh chưa đảm bảo nên năng suất ở mức trung bình. Những vùng chè lớn trên cả nước như Thái Nguyên, Lâm Đồng, năng suất chè lên tới 12 - 14 tấn/ha/năm, thu nhập trên mỗi ha lên tới hàng trăm triệu đồng. Nếu so sánh với vùng chè Mường Khương, nơi được đánh giá là sản xuất chè chủ lực trên địa bàn tỉnh thì nguồn thu từ cây chè mới chỉ bằng 2/3 so với những vùng chè lớn của cả nước. Giá chè búp tươi tại Lào Cai trung bình chỉ đạt 7.000 đồng/kg nên thu nhập từ cây chè hiện nay không còn đủ hấp dẫn để cạnh tranh với những cây trồng khác, hiệu quả kinh tế từ cây chè vẫn rất khiêm tốn.
Phần lớn sản lượng chè sản xuất tại Lào Cai mới chỉ dừng ở mức chế biến thô để xuất khẩu sang các thị trường dễ tính như Tây Á, Trung Đông, Đài Loan nên giá trị gia tăng là chưa cao. Giá trị xuất khẩu thấp dẫn đến giá thu mua chè nguyên liệu thấp, tiêu chuẩn chất lượng cũng chưa thể tiếp cận được những thị trường cao cấp hơn. Hiện nay, chỉ có chè hữu cơ Bản Liền và chè chất lượng cao tại Sa Pa với sản lượng rất nhỏ “xâm nhập” được những thị trường cao cấp với hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo. Giá thu mua chè búp tươi nguyên liệu tại những vùng chè này cao hơn hẳn so với giá trung bình chung của tỉnh. Nếu tiếp cận được những thị trường cao cấp, giá chè xuất khẩu là rất cao so với mặt bằng sản xuất chung hiện nay, từ đó sẽ kéo theo việc giá thu mua chè búp tươi tăng lên, người dân được hưởng lợi lớn hơn từ cây chè.
Bởi vậy, theo quan điểm của ông Tiến, để nâng cao giá trị từ cây chè trong những năm tới cần sản xuất theo tiêu chuẩn của thị trường cao cấp; đầu tư thâm canh để tăng năng suất; doanh nghiệp và chính quyền địa phương tích cực vào cuộc - đó là 3 yếu tố để xây dựng vùng chè của tỉnh. “Trong giai đoạn tới, ngành nông nghiệp không tập trung vào mở rộng diện tích sản xuất cây chè nữa mà thay vào đó là nâng cao năng suất, nâng giá trị gia tăng từ chế biến sâu, tạo ra các sản phẩm mới. Làm được điều đó, giá trị kinh tế từ cây chè sẽ tăng lên, người dân sẽ quan tâm đầu tư, chăm sóc, giữ vững tính ổn định của vùng chè nguyên liệu” - ông Tiến nhận định.
Trước mắt, với những vùng chè “3 không”, ngành nông nghiệp cùng các địa phương sẽ phối hợp tạo điều kiện, thu hút các doanh nghiệp đủ năng lực đầu tư chế biến, tăng tính cạnh tranh trong sản xuất. Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng cần vào cuộc quyết liệt để giải quyết dứt điểm những vướng mắc, tháo gỡ “nút thắt” về đầu ra để khôi phục niềm tin trong Nhân dân.
Có thể nói, bài học từ những vùng chè “3 không” không phải là vấn đề riêng của cây chè. Trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, việc tổ chức sản xuất đảm bảo tính liên kết bền vững, lấy nông dân làm chủ thể, quan tâm từ sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa tới chế biến sâu vẫn luôn quyết định thành - bại của bất cứ cây trồng hàng hóa nào. Hơn nữa, cây chè là cây hàng hóa lâu năm, hầu hết diện tích chè hàng hóa đều có sự đầu tư của Nhà nước nên hệ quả từ việc tổ chức sản xuất không sát với thực tế khiến những vùng chè “3 không” trở thành bài học nhãn tiền, thay vì “thành tích” mở rộng diện tích, cần quan tâm đầu tư thâm canh và hướng tới tăng giá trị gia tăng từ chế biến sâu. Những vùng chè “3 không” vẫn hiện hữu trên các vùng chè của tỉnh Lào Cai như “một dấu chấm lửng”, chờ đợi ngành nông nghiệp và các địa phương vào cuộc giải quyết, để không lãng phí đầu tư của Nhà nước và xói mòn niềm tin của nông dân.