Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Lược sử về tuyến giao thương Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam

Lược sử về tuyến giao thương Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam

Cách đây hơn 150 năm từ khi Đuyprê (dupre) Tổng Chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tìm ra tuyến đường thủy vận chuyển hàng hóa từ Cửa Cấm (Hải Phòng) vào Hà Nội và ngược sông Hồng lên Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc). Từ đó đến nay, dòng sông Hồng có vai trò quan trọng trong kết nối hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Ngược dòng lịch sử, sau khi hoàn thành cuộc chiến xâm lược thuộc địa ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, người Pháp đã nhìn thấy cái đích xa hơn chính là thị trường Trung Hoa (Trung Quốc ngày nay). Sự rộng lớn mênh mông của thị trường Trung Hoa và dân số 400 triệu (con số ước lượng dân số toàn Trung Hoa của triều đại nhà Thanh), đặc biệt là vùng đất phía Tây Nam Trung Hoa với sự giàu có về tài nguyên, khoáng sản, lâm sản… nên việc tìm đường chinh phục đã được đặt ra.

ban-do-song-hong-qua-dia-phan-tinh-lao-cai-do-nguoi-phap-ve-khoang-nam-1910zip-1.jpg

Mưu đồ này được thể hiện rõ từ năm 1787, khi giáo sĩ Pigneau de Béhaine thuyết phục vua Pháp ký Hiệp ước viện trợ cho triều Nguyễn phát triển thương mại và mở rộng giao thương với nhà Thanh để thúc đẩy An Nam (tức nước Việt Nam) mở rộng hoạt động buôn bán với Trung Hoa. Đến năm 1857, Ủy ban nghiên cứu vấn đề An Nam của chính phủ Pháp đã đề nghị Toàn quyền Pháp ở Đông Dương bắt tay ngay vào việc mở một tuyến đường thủy từ Biển Đông qua cửa Cấm (Hải Phòng) ngược sông Hồng lên Laokay tiến vào Trung Hoa. Một trong những người đầu tiên thực hiện kế hoạch ấy là Jean Dupuis (sinh năm 1828) - một nhà thám hiểm và thương nhân người Pháp.

Đầu tháng 1 năm 1873, Dupuis rời Hà Nội, ngược sông Hồng và đến tháng 3 thì đến Vân Nam. Như vậy, vấn đề mở một tuyến đường thủy từ biển Đông qua sông Hồng tiến vào Vân Nam đã được giải quyết. Điểm bắt đầu của tuyến đường này là cửa biển Ninh Hải - Cửa Cấm (Hải Phòng) đi vào Hà Nội ngược sông Hồng (An Nam) và đích đến là xứ Vân Nam (Trung Hoa). Vấn đề quan trọng nhất lúc này là sự ngăn trở của triều đình nhà Nguyễn, quan quân ở các địa phương không cho mở cửa sông Hồng để khai thông tuyến đường mơ ước này cho người Pháp.

Ngày 12/11/1873, Garnier (Đại úy phụ trách thủy quân của Pháp tại An Nam) gửi cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương một tối hậu thư về việc mở cửa sông Hồng. Đến ngày 18/11, Garnier cho niêm yết ở Hà Nội một bản tuyên bố với 10 điểm, trong đó nếu rõ việc sẽ mở cửa sông Hồng để thông thương với Vân Nam (Trung Hoa), bãi bỏ thuế quan cũ của người Việt và người Pháp sẽ thu thuế hải quan, những nhà buôn Trung Hoa và những nhà buôn khác có liên quan sẽ được bảo vệ. Ngày 19/11, Garnier lại viết một bức thư nữa cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đưa ra những yêu sách đòi Tổng đốc giải giáp quân đội, rút hết súng trên các thành trì dọc bờ sông, cho phép thuyền Pháp đi lại tự do đến Vân Nam và ra lệnh cho quan lại các tỉnh và dân chúng phải tuân thủ theo những quyết định về thương mại của người Pháp. Không nhận được câu trả lời, ngày 20/11/1873, người Pháp tấn công thành Hà Nội.

ban-do-song-hong-qua-dia-phan-tinh-lao-cai-do-nguoi-phap-ve-khoang-nam-1910zip-2.jpg

Sau khi thành Hà Nội thất thủ, quân Pháp mở rộng xâm chiếm các vùng lân cận, bởi lẽ Hà Nội ở xa biển, nên họ chỉ có thể ở đó an toàn khi bảo đảm có đường đi ở vùng châu thổ và kiểm soát được các thành trì bên bờ sông Hồng, sông Đáy, sông Thái Bình. Lúc này, người Pháp đã gửi cho triều đình Huế một bức tối hậu thư yêu cầu chấp nhận chế độ bảo hộ ở xứ Bắc Kỳ nếu không sẽ tuyên bố nền độc lập của xứ Bắc Kỳ dưới sự bảo hộ của người Pháp. Trước sự hống hách của người Pháp, triều đình nhà Nguyễn ở Huế nhượng bộ, đồng ý cử đại diện ra Bắc kỳ thương thuyết.

Ngày 20/12/1873, phái đoàn thương thuyết của triều đình Huế tới Hà Nội. Ngày 21/12/1873, khi việc thương thuyết đang diễn ra thì quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc từ mạn Laokay kéo xuống hội với đội quân của Trương Quang Đản ở Bắc Ninh đến tấn công vào pháo đài phía Tây Nam thành Hà Nội rồi rút quân về phủ Hoài Đức (Sơn Tây). Thiếu tá Hải quân Francis Garnier đình chỉ cuộc thương thuyết, dẫn quân truy kích nhưng bị phục binh giết chết ở Cầu Giấy.

Được tin Garnier tử trận đã làm cho quân Pháp ở Bắc Kỳ hoang mang, tìm cách bỏ thành trốn chạy, do đó người Pháp xuống thang và lập tức hạ lệnh trả lại tất cả các thành trì cho triều đình nhà Nguyễn. Ngày 6/2/1874, đại diện phía Pháp đã ký với nhà Nguyễn một quy ước với nội dung căn bản là: quân Pháp cam kết sẽ rút khỏi thành Hà Nội, tạm thời đưa Dupuis về Hải Phòng chờ lệnh, nếu Dupuis muốn sang Vân Nam thì phải xin ý kiến người đại diện phía Pháp và sẽ phải ở lại Vân Nam cho đến khi sông Hồng được thông thương.

ban-do-song-hong-qua-dia-phan-tinh-lao-cai-do-nguoi-phap-ve-khoang-nam-1910zip-3.jpg

Ngày 15 tháng 3 năm 1874, triều đình Huế chính thức ký với Pháp hiệp ước Giáp Tuất, trong đó việc mở cửa sông Hồng thông thương với Vân Nam được ghi rõ:

Điều 11: Chính phủ An Nam cam kết mở cửa biển Ninh Hải, tỉnh Hải Dương, thành phố Hà Nội, con đường sông Nhị Hà từ biển đến Vân Nam cho việc buôn bán. Cảng Ninh Hải, cảng Hà Nội và việc đi lại trên sông Hồng sẽ được mở ngay khi trao đổi thư được phê chuẩn và nếu có thể thì sớm hơn… Những cảng khác hoặc sông khác sau này cũng có thể mở ra buôn bán nếu cần thiết…

Điều 12: Người Pháp và người An Nam thuộc Pháp hoặc người ngoại quốc… có thể đi lại và buôn bán từ biển đến Vân Nam bằng con đường Nhị Hà, nếu họ trả các khoản thuế quy định…

Từ đây, tuyến giao thương Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam đã chính thức khai mở vào cuối thế kỷ XIX.

Theo những tư liệu lịch sử, trước khi tuyến giao thương Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam chính thức được khai mở thì hoạt động buôn bán giữa người Việt với người Trung Quốc ở vùng biển phía Đông Bắc Việt Nam đã diễn ra khá mạnh mẽ. Khi nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, vẫn có những thuyền buôn từ Trung Hoa lén lút tới đây buôn bán bởi đó là tuyến đường ngắn nhất mà lại không phải qua các trạm thuế quan lớn. Kể cả khi có lệnh cấm của triều đình vào năm 1865 (do có cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Phụng) người ta vẫn ghi nhận sự xuất hiện của những thương thuyền Trung Hoa ở vùng cửa biển này.

Ngay sau khi sông Hồng mở cửa qua Hiệp ước Giáp Tuất 1874, người Pháp đã nhanh chóng thiết lập ngay tuyến giao thương từ biển Đông (qua Cửa Cấm/Ninh Hải) ngược sông Hồng lên Vân Nam.

ban-do-song-hong-qua-dia-phan-tinh-lao-cai-do-nguoi-phap-ve-khoang-nam-1910png.jpg

Giai đoạn 1874 - 1879: Giai đoạn này đánh dấu bằng sự xuất hiện của Lãnh sự Pháp là Louis Turc với kế hoạch mở rộng hoạt động thương mại ở Bắc Kỳ, thu hút rộng rãi các hoạt động thương mại trên biển Đông nhằm tạo ra một nguồn sản phẩm dồi dào để thúc đẩy mạnh hoạt động thương mại với Vân Nam. Về các mặt hàng buôn bán, theo ghi chép của Lãnh sự Turc thì “thời gian gần đây, hàng xuất đi (Vân Nam) ngày càng nhiều cây đằng giả, củ nâu. Thứ nguyên liệu cho thuốc nhuộm này làm cho khối lượng hàng hóa chuyên chở trở nên cồng kềnh, che giấu phía dưới là những mặt hàng có giá trị hơn như lụa, thiếc, lá thuốc, sơn mài, nấm khô...”. Mặt hàng siêu lợi nhuận mà các thương nhân người Pháp mong muốn mang đến Vân Nam là vũ khí thì lại không được phép chuyên chở do lệnh cấm chuyển vũ khí theo Hiệp ước Giáp Tuất 1874, thành ra củ nâu và các mặt hàng lâm sản trở thành sản phẩm chính xuất sang Vân Nam giai đoạn này. Hàng từ Vân Nam xuống chủ yếu là thiếc nhưng số lượng ít mà giá lại rất cao. Những loại quặng khác (như vàng, bạc, sắt, chì, kẽm...) mà trước đây Francis Garnier đã ca ngợi là rất dồi dào thì nay không thấy xuất hiện trong danh mục các sản phẩm buôn bán trên sông Hồng. Nhiều người ngờ rằng những kim loại quý giá này đã bị khai thác quá mức trong cuộc nội chiến ở vùng Vân Nam giai đoạn trước rồi. Ngoài thiếc, Vân Nam cũng cung cấp cho thị trường Bắc Kỳ thuốc phiện, chủ yếu phục vụ cộng đồng Hoa kiều ở Hà Nội và các vùng phụ cận. Như vậy, dù rằng tuyến giao thương đến Vân Nam đã được khai mở song hoạt động buôn bán giai đoạn đầu này không thực sự thuận lợi như những dự kiến ban đầu của giới tư sản Pháp, bởi lúc này tình hình bất ổn ở vùng thượng nguồn (hoạt động của quân Cờ đen) đã làm cho hoạt động giao thương gặp rất nhiều khó khăn. Cùng với đó, trên sông Hồng có nhiều thác ghềnh cũng là cản trở rất lớn cho thuyền bè, nhất là chặng Laokay (An Nam) - Mạn Hảo (Vân Nam - Trung Hoa).

Giai đoạn 1880 - 1901: Đây là giai đoạn quan trọng trong hoạt động thương mại trên tuyến Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam. Trước hết, dù con đường thương mại trên sông Hồng có vẻ đã mở sau Hiệp ước Giáp Tuất 1874 và công cuộc bình định Bắc Kỳ đã cơ bản hoàn thành, song chính quyền thuộc địa cho rằng cần tạo ra một đường vào dễ dàng ở khu vực nội địa Bắc Kỳ thông qua việc thiết lập một cảng (quân cảng kiêm thương cảng) có trang thiết bị tối ưu phục vụ việc vận chuyển. Trong vòng hơn một thập kỷ, người Pháp đã tích cực xây dựng Cửa Cấm/cửa Ninh Hải (Hải Phòng) trở thành một cảng nội địa, điểm đầu của con đường vào cảng lớn xứ Bắc Kỳ. Nếu hoạt động của cảng Hải Phòng phát triển cũng như việc lưu thông hàng hóa trên sông Hồng thuận lợi, đây có thể là cơ hội đẩy mạnh hoạt động buôn bán nhằm vào Vân Nam và thị trường Trung Hoa.

img-5173.jpg
Sông Hồng trên địa phận thành phố Lào Cai ngày nay.

Trước những khó khăn của tuyến giao thương đường thủy từ Cửa Cấm (Hải Phòng) ngược sông Hồng lên Laokay rồi sang Vân Nam, song người Pháp vẫn không ngừng từ bỏ ý định thâm nhập vào Trung Hoa. Từ đây, người Pháp đã lựa chọn giải pháp khác là giao thông đường sắt. Năm 1901, tuyến đường sắt Việt - Điền kết nối giữa Hải Phòng - Côn Minh chính thức khởi công, đánh dấu quá trình chuyển hướng con đường thâm nhập vào Trung Hoa của người Pháp.

img-5174.jpg
Nơi dòng Nậm Thi và Sông Hồng hòa nhịp.

Từ khi được tìm kiếm cho đến khi khai mở rồi dần bị thay thế bởi đường sắt, tuyến giao thương đường thủy từ Cửa Cấm (Hải Phòng) qua sông Hồng lên Vân Nam dù đã trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng nó đã có tác động rất lớn về kinh tế, xã hội và văn hóa đối với khu vực Bắc kỳ nói chung và Laokay nói riêng. Đầu tiên, nó góp phần thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế ở vùng đất Hải Phòng - chỉ trong vòng chưa đầy hai thập kỷ, người Pháp đã xây dựng ở đấy một thương cảng với những trang thiết bị tối tân phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa. Sự ra đời của cảng Hải Phòng là tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của khu vực dọc sông Hồng từ Hà Nội lên Lào Cai. Đối với Lào Cai thì trong những năm cuối thể kỷ XIX và cả thế kỷ XX cả tuyến giao thương đường thủy Cửa Cấm - sông Hồng - Vân Nam và tuyến đường sắt Việt - Điền đã góp phần đưa vùng đất này lên vị trí trọng yếu, là cầu nối quan trọng trong giao thương hàng hóa giữa Việt Nam - Trung Quốc - ASEAN và châu Âu.

* Trong bài có sử dụng một số tư liệu trong cuốn Việt Nam sử lược của tác giả Trần Trọng Kim và cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của các nhà sử học Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ, Lê Hy…

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Bài cuối: Kiến tạo không gian phát triển mới

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài cuối: Kiến tạo không gian phát triển mới

Sông Hồng - dòng chảy đỏ nặng phù sa, nơi hun đúc nền văn minh rực rỡ, nơi in dấu những bước chân đầu tiên của người Việt trên hành trình dựng nước và giữ nước. Hàng nghìn năm qua, con sông ấy không chỉ mang lại nguồn sống cho bao thế hệ mà còn kết nối những vùng đất, những nền văn hóa, tạo nên một vùng Bắc Bộ trù phú và giàu bản sắc.

Bài 6: Hành trình kiến tạo những đô thị ven sông

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài 6: Hành trình kiến tạo những đô thị ven sông

Dọc theo đôi bờ sông Hồng trên hành trình chảy qua 9 tỉnh của Việt Nam, những đô thị mới dần hình thành, mang theo những khát vọng phát triển, hòa quyện giữa sự hoang sơ và hơi thở hiện đại. Từ miền thượng nguồn nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt tại tỉnh Lào Cai, chúng tôi đã rong ruổi theo dòng sông qua các tỉnh để về Thái Bình - nay thuộc tỉnh Hưng Yên. 

Bài 5: Không gian sông Hồng - biểu tượng mới của Thủ đô

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài 5: Không gian sông Hồng - biểu tượng mới của Thủ đô

Sông Hồng - dòng chảy mang trong mình bao lớp trầm tích lịch sử, văn hóa và những câu chuyện huyền thoại, từ lâu trở thành biểu tượng gắn bó mật thiết với mảnh đất Thăng Long - Hà Nội. Không chỉ nâng niu, nuôi dưỡng sự phồn thịnh cho kinh kỳ ngàn năm, sông Mẹ còn chuyên chở những giá trị tinh thần, hun đúc bản sắc và khát vọng của bao thế hệ.

Bài 4: Đánh thức tiềm năng từ đất bãi ven sông

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài 4: Đánh thức tiềm năng từ đất bãi ven sông

Sông Hồng - dải lụa mềm mại vắt qua Thủ đô Hà Nội, mang theo bao lớp trầm tích phù sa, hun đúc nên những bãi bồi trù phú, những doi đất giàu tiềm năng. Dòng chảy ấy không chỉ là nhân chứng lịch sử của bao thăng trầm, mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho những dự án quy hoạch đô thị, vẽ nên giấc mơ về một thành phố hai bên bờ sông, nơi cuộc sống hòa quyện giữa thiên nhiên và hiện đại.

Khai thác, chế biến khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường

Khai thác, chế biến khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường

Lào Cai có tiềm năng lớn về khoáng sản với gần 300 mỏ, điểm mỏ thuộc 17 nhóm khoáng sản như: đồng Sin Quyền, sắt Quý Sa, đá vôi trắng (Lục Yên, Yên Bình), nổi bật là Apatit với trữ lượng hàng tỷ tấn, cùng với trên 400 điểm mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. đây là tài nguyên vô giá của quốc gia, do đó việc phát triển ngành công nghiệp thăm dò, khai thác, chế biến sâu khoáng sản gắn với sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, thân thiện môi trường.

Bài 1: Hình thành không gian trục động lực dọc sông Hồng

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài 1: Hình thành không gian trục động lực dọc sông Hồng

Theo Quy hoạch tỉnh Lào Cai (cũ) thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, địa phương sẽ tập trung phát triển trục kinh tế động lực dọc sông Hồng. Đây là trục kinh tế đóng vai trò “hạt nhân” đối với liên kết không gian phát triển kinh tế của tỉnh; kết nối vùng, liên vùng và cả nước với khu vực Tây Nam Trung Quốc.

Nỗ lực đưa các dự án trọng điểm "về đích"

Nỗ lực đưa các dự án trọng điểm "về đích"

Trong bối cảnh chỉ còn chưa đầy hai tháng là kết thúc năm tài chính 2025, tỉnh Lào Cai đang bước vào "cuộc đua nước rút" nhằm giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt là đối với các dự án trọng điểm. Với quyết tâm chính trị cao, sự chỉ đạo quyết liệt và các giải pháp tháo gỡ linh hoạt, tỉnh đang nỗ lực vượt qua hàng loạt "điểm nghẽn" để đưa các công trình "về đích" đúng tiến độ.

Xây dựng khu công nghiệp Tằng Loỏng “xanh và sinh thái”

Xây dựng khu công nghiệp Tằng Loỏng “xanh và sinh thái”

Lào Cai đang triển khai các giải pháp nhằm xây dựng khu công nghiệp (KCN) Tằng Loỏng thành KCN sinh thái đầu tiên ở khu vực miền núi phía Bắc. Đây không chỉ là bước chuyển về công nghệ mà còn thể hiện quyết tâm phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.

Quy hoạch đô thị TOD gắn với Dự án đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Quy hoạch đô thị TOD gắn với Dự án đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Trong quá trình triển khai Dự án đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, cùng với đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư, tỉnh Lào Cai đã chỉ đạo các sở, ngành và địa phương nghiên cứu quy hoạch để hình thành các đô thị TOD (Transit - Oriented Development - phát triển đô thị lấy giao thông công cộng làm trung tâm) xung quanh một số vị trí nhà ga trong tương lai. 

Gấp rút hoàn thành dự án Bệnh viện Đa khoa khu vực Bảo Yên

Gấp rút hoàn thành dự án Bệnh viện Đa khoa khu vực Bảo Yên

Dự án Bệnh viện Đa khoa Bảo Yên (Lào Cai) vốn đầu tư 258 tỷ đồng đã hoàn thành hơn 90% khối lượng, đang gấp rút hoàn thiện các hạng mục cuối cùng. Chủ đầu tư và nhà thầu thi công đang huy động tối đa nhân lực, thiết bị để đảm bảo đưa công trình vào sử dụng trong năm nay.

Lào Cai nỗ lực khôi phục các công trình hạ tầng, ổn định sản xuất

Tái thiết sau bão lũ: Lào Cai nỗ lực khôi phục các công trình hạ tầng, ổn định sản xuất

Những đợt mưa lũ vừa qua, đặc biệt là hoàn lưu bão số 10, đã gây thiệt hại nặng nề về cơ sở hạ tầng và sản xuất nông nghiệp ở Lào Cai. Toàn tỉnh có 488 công trình thủy lợi hư hỏng với thiệt hại ước 168 tỷ đồng, cùng hạ tầng giao thông gần 50 tỷ đồng. Mặc dù các thiệt hại ban đầu đã được khắc phục tạm thời, “vết sẹo” thiên tai trên hệ thống hạ tầng vẫn rất nặng nề, đòi hỏi nguồn lực lớn để phục hồi triệt để.

Sắp khởi công hầm đường bộ Hoàng Liên qua đèo dài nhất Việt Nam - Ô Quy Hồ

Sắp khởi công hầm đường bộ Hoàng Liên qua đèo dài nhất Việt Nam - Ô Quy Hồ

Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh Lai Châu đang khẩn trương hoàn thiện thủ tục ký hợp đồng, chuẩn bị đầy đủ nhân lực, vật lực để khởi công Dự án hầm đường bộ Hoàng Liên (Ô Quy Hồ) vào ngày 19/12 tới, phấn đấu hoàn thành, thông xe kỹ thuật đúng tiến độ.

fb yt zl tw