Trở lại Bản Lầu xanh tươi

Tôi trở lại vùng đất biên giới Bản Lầu, quen mà lạ. Đến nhiều lần, gặp nhiều người nên đã quen. Nhưng lạ, bởi mỗi lần đến rẻo đất ven biên này lại thấy thêm nhà xây mới hồng tươi mái lợp, nương đồi kín rợp màu xanh cây trái, gương mặt người sáng thêm, vững tin như cột mốc biên giới bình yên nơi đây.

Bẵng đi mấy năm, tháng Giêng Ất Tỵ tự tay lái “con ngựa sắt bốn bánh” trở lại rẻo đất biên giới Pạc Bo, Na Lốc, Cốc Phương… tôi thực sự ấn tượng về tuyến đường nhựa át-phan vừa rộng vừa nhẵn mịn, như dải lụa huyền chạy suốt dọc dài biên giới, gần 20 cây số, từ quốc lộ 4D Lào Cai - Mường Khương rẽ vào, xuyên suốt 7 thôn biên giới của Bản Lầu đến tận “ốc đảo” Nậm Chảy năm nào. Chủ tịch Cựu chiến binh xã Bản Lầu Sin Văn Thắng nói với tôi, đó là Tỉnh lộ 154, do tỉnh đầu tư hàng chục tỷ đồng để mở rộng gấp đôi, át-phan dầy dặn toàn bộ mặt đường, vừa mới hoàn thành đưa vào sử dụng trước tết Ất Tỵ chừng 3 tháng. Vậy nên, cứ mỗi lần trở lại, tôi lại thấy thêm cái mới, cái lạ ở vùng đất quen thân từ lâu, mà ở đó mỗi ngôi nhà, nương dứa, đồi cây đều gợi nhớ về mảnh đất và con người biên giới đầy gian khó mà bền bỉ, kiên trung, đầy niềm tin và nội lực đi lên.

z6306229240959-9d9266c496b63d900f45c59c2005f398.jpg
z6306229272963-652cbb7f03e56b042408117eb86e75b6.jpg
Niềm vui được mùa dứa ở rẻo cao biên giới Bản Lầu.

Còn nhớ, ban đầu bà con người Mông, Nùng, Giáy ở 7 thôn biên giới Bản Lầu làm ăn, đi lại trên đường nhỏ hẹp, lầy lội bằng đôi chân trần trên vai gùi nặng hoặc ngựa thồ hoặc bằng chiếc xe Min-khờ to nặng và thật khỏe mới kham nổi đường xấu. Gian khó đè nặng trên vai, mãi đến năm 2009, khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết lên thăm Bản Lầu, thấy rõ quyết tâm vượt khó để dựng bản lập làng (sau chiến tranh biên giới) của chính quyền và bà con dân tộc nơi đây, ông đã chỉ đạo làm đường mới, tạo động lực giao thương, phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống bà con ở địa phương. Tuyến đường “bác Triết” rộng mở, cấp phối mặt cho ô tô loại vừa và nhỏ từ Quốc lộ 4D chở phân bón vào tận bản, đến từng nhà dọc rẻo đất biên giới, làm dậy lên phong trào phủ xanh đồi trọc, xóa đói đuổi nghèo bằng dứa Hoàng hậu (Queen) và chuối cấy mô, làm “thay da đổi thịt” đất và người nơi đây.

Nhớ năm ấy, đúng mùa dứa chính vụ, tôi bon xe máy chạy vào Cốc Phương, dừng chân ngay trước cửa nhà Thào Dìn đang tấp nập người và xe tải cân hàng. Dứa được mùa được giá, bà con người Mông vui như hội. Thanh niên trẻ khỏe điều khiển những chiếc xe máy Win 100 vừa cao gầm vừa khỏe trên vai địu lù cở hàng tạ dứa quả mới hái từ trên nương chạy xuống đường “bác Triết” cân bàn, rồi đổ lên xe ô tô. Cứ thế như con thoi. Phụ nữ thì phân lọc quả và xếp dứa lên xe, ghi chép mã cân để cuối ngày tính tiền. Đường tốt, đi lại dễ nên người mua cùng người bán dứa đều chung niềm vui được mùa được giá, được tiền nhiều. Niềm vui no ấm hiện rõ trên mặt người trong nắng cuối đông ấm áp. Tôi cứ đứng mãi trước cổng nhà, mừng cho Thào Dìn cùng bà con người Mông ở Cốc Phương. Xong chuyến hàng, “tay bắt mặt mừng” Thào Dìn khoe năm nay thắng lớn nhờ dứa tốt đường thông, bán gọn sản lượng của hơn 30 vạn gốc dứa, tổng hàng trăm tấn quả, thu về hơn 300 triệu đồng.

Con đường đi của Thào Dìn, được mệnh danh là “vua dứa” ở Cốc Phương cũng chính là hành trình vượt khó vươn lên từ sau chiến tranh biên giới để lập làng khởi nghiệp của hàng trăm hộ đồng bào Mông ở rẻo đất biên giới này. Ðói, nghèo buộc Thào Dìn phải sang bên kia biên giới làm thuê cho chủ trang trại dứa nước bạn. Nhìn những đồi dứa của họ xanh tốt, Thào Dìn nghĩ đất Cốc Phương mình rộng thế, sao người Mông ta không trồng dứa bán cho các nhà máy chế biến của họ. Cứ phát nương tra ngô, đất bạc màu, rừng nghèo kiệt, thì tự buộc chặt mình vào cái đói, cái nghèo mãi thôi. Nghĩ là làm, Thào Dìn không nhận tiền công làm thuê mà nói với ông chủ trang trại cho lấy dứa giống. Mười nghìn gốc dứa đầu tiên được vợ chồng Thào Dìn cặm cụi “cắm” lên đồi thành hàng lối, nhìn thật đẹp mắt. Không phụ công người trồng, dứa lên xanh tốt, quả to, chín vàng. Thế nhưng, chuẩn bị thu hoạch vướng phải mùa mưa kéo dài cả tuần, làm dứa thối nhũn. Xót của nhưng không nản, Thào Dìn gác lại việc trên nương, đi bộ ra xã, bắt xe khách vào huyện hỏi cán bộ khuyến nông cách làm. Vụ sau, Thào Dìn trồng dứa sớm hơn, chăm sóc đúng kỹ thuật, để khi quả chín tránh được mưa rừng kéo dài, không bị thối hỏng. Trúng mùa lớn, lần đầu tiên trong đời, cầm món tiền lớn như mơ, vợ chồng Thào Dìn cả đêm không ngủ. “Thế là tìm được chìa khóa thoát nghèo cho người Mông ta ở nơi núi cao gió hú này rồi, mừng hơn kéo được vợ” - Thào Dìn kể lại.

Học theo cánh chim đầu đàn Thào Dìn, người Mông suốt rẻo biên giới Bản Lầu thay cây ngô bằng trồng dứa, đem lại thu nhập cao hơn hẳn, xóa hẳn cái đói, đẩy lùi cái nghèo, đời sống khá hơn. Thành công từ cây dứa, người Mông nơi đây còn trồng chuối bằng giống nuôi cấy mô để xuất khẩu. Chỗ thấp ven suối thì trồng chuối, trên núi cao thì trồng dứa, màu xanh của sự no ấm, trù phú phủ kín vùng đất hoang. Được tín nhiệm bầu làm Trưởng thôn Cốc Phương, Thào Dìn nghĩ cách lập Tổ đổi công trồng dứa, chuối cho những hộ khó khăn, neo đơn, nhờ vậy hộ nào cũng có việc làm, nguồn thu. Từ Cốc Phương lan nhanh sang các thôn Na Lốc, Pạc Bo, Đồi Gianh… Diện mạo nông thôn biên giới Bản Lầu thay da đổi thịt từng ngày.

z6306229269768-0892d99d6c9db35a22b84bd511e332f8.jpg
Nông dân Bản Lầu thu nhập ổn định từ trồng chuối.

Hôm tôi trở lại Cốc Phương, Thào Dìn đã hiến đất nhường ngôi nhà cũ năm nào để mở rộng Tỉnh lộ 154, ông lui về ở căn nhà nhỏ hơn ngay sát mặt đường, ngay trước cổng Trường Tiểu học và THCS Na Lốc. Giờ ông giao công việc nương đồi cho con cái, nhưng bản thân ông không nghỉ mà hướng dẫn kỹ thuật trồng dứa, chuối, xoài, sa nhân tím… cho bà con khắp rẻo biên giới này. Ông hóm hỉnh, tuổi nhiều một tý rồi thì mình làm cái việc phù hợp để giúp bà con làm ăn ngày càng khá lên, cùng nhau xây dựng biên giới no ấm, đẹp giàu. Ông đưa tôi đến nơi Đồn 136 Na Lốc (thuộc Công an Vũ trang Lào Cai - tiền thân của Đồn Biên phòng Bản Lầu ngày nay) ngày trước đóng quân, ở đó mọi người vẫn nhắc đến liệt sỹ Đồn trưởng Nhạc Văn Công và Chính trị viên Nguyễn Thái Chu cùng 20 cán bộ, chiến sỹ Đồn 136 Na Lốc đã anh dũng hy sinh để bảo vệ dân, giữ vẹn nguyên đất đai Tổ quốc trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm nào.

Cũng ở ngay mảnh đất thấm máu đào các anh hùng liệt sĩ này, tôi gặp Giàng Lùng, dân tộc Mông, Bí thư chi bộ Na Lốc 3 cùng vợ chăm nương xoài 4 năm tuổi đang mùa trổ lộc đơm hoa. Như cánh chim đầu đàn, Giàng Lùng xông xáo, đi đầu trong công việc chung, vận động bà con vừa phát triển kinh tế vừa cùng Bộ đội Biên phòng bảo vệ đường biên mốc giới, giữ gìn an ninh trật tự làng bản bình yên. Thôn Na Lốc 3 hiện có 61 hộ, với 368 nhân khẩu thì chỉ còn hơn chục hộ nghèo, hơn 70% số hộ khá và giàu. Anh kể cho tôi nghe về Giàng Dùng, Vàng Phủng, Giàng Phừ…, mới ngoài 40 nhưng là những triệu phú ở vùng đất này, họ chính là lớp kế cận xứng đáng với “vua dứa” Thào Dìn năm xưa, làm giàu mạnh thêm quê hương biên giới.

Bí thư Đảng ủy xã Bản Lầu Lê Đức Hạnh thông tin, năm 2024 toàn xã có 848 ha dứa đang cho thu hoạch, năng suất đạt 26 tấn/ha, đạt tổng sản lượng hơn 22.000 tấn quả, bán cho Nhà máy chế biến rau quả xuất khẩu Mường Khương và các tỉnh Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ninh… đem về cho người dân hơn 132 tỷ đồng. Nhờ vậy, hầu hết nhà dân đã xây kiên cố, nhiều nhà 2 - 3 tầng, có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt hiện đại, các con được học hành đủ đầy, không có tệ nạn xã hội xảy ra.

Thăm Đồn Biên phòng Bản Lầu, Trung tá, Chính trị viên Nguyễn Văn Ước đưa tôi đến gia đình chị Vàng Thị Xóa, ở thôn Đồi Gianh đã thoát nghèo từ con bò giống do anh em cán bộ, chiến sỹ của Đồn chung tay quyên góp, ủng hộ. Cách làm của Đồn cũng rất hay, cử Thiếu tá Vàng Văn Dung là Đội trưởng Phòng chống ma túy và tội phạm của Đồn trực tiếp giúp đỡ. Khi bò mẹ đẻ, sẽ chuyển con bê đầu tiên cho người nghèo khác. Từ con bê thứ hai trở đi cùng con bò mẹ ban đầu sẽ thuộc về chị Xóa. Bằng cách giúp đỡ có địa chỉ, có người phụ trách trực tiếp như thế, hai năm qua Đồn Biên phòng Bản Lầu đã trao tặng 6 con bò giống cho hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, đã sinh được 2 con bê mới, tiếp thêm động lực cho bà con vươn lên cuộc sống tốt hơn. Coi bà con như người thân ruột thịt, biên giới là quê hương, cán bộ và chiến sỹ của Đồn nhận đỡ đầu hai con nuôi sinh hoạt và học tập tại Đồn và hỗ trợ “Nâng bước em đến trường” 17 học sinh có hoàn cảnh khó khăn được đến trường học chữ, rèn người, sau này lập thân và lập nghiệp dựng xây quê hương.

Nắng xuân đã bừng lên tỏa ấm áp lên thị tứ Bản Lầu rực rỡ cờ đỏ sao vàng trước mỗi ngôi nhà, trường học. Tôi cùng Chính trị viên Nguyễn Văn Ước đến thắp nén hương thơm trước anh linh các anh hùng liệt sỹ ở Nghĩa trang Bản Lầu, ở đó có những liệt sỹ của Đồn 136 Na Lốc năm xưa anh dũng chiến đấu và hy sinh cho vẹn nguyên đất đai Tổ quốc và cuộc sống yên bình của nhân dân hôm nay.

“Tưởng nhớ người đã hy sinh, cách tốt nhất chúng ta hãy làm mọi việc để có hòa bình bền vững, để bảo vệ vững chắc đường biên cột mốc, để người dân giáp biên có đời sống tốt hơn, no ấm và bình an” - trong khói hương bay lên, giọng anh Ước như một lời thầm nhắc bên tôi.

Hàng bia liệt sĩ đứng nghiêm trang như những người lính năm xưa chung đội ngũ, những bông hoa nở đỏ sắc hồng bên các anh như mùa xuân vẫn còn đang đợi… Năm ấy, Đồn trưởng Nhạc Văn Công dũng cảm, ngoan cường chiến đấu cùng đồng đội và nằm xuống hòa vào đất đai Na Lốc thì nay cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Bản Lầu ngày đêm bám bản, bám dân để làm ăn, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới; bám đường biên mốc giới để gìn giữ và bảo vệ vẹn nguyên đất đai Tổ quốc. Họ là những “cột mốc đỏ” nơi biên giới thân thương…

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Từ “điểm sáng” đơn lẻ đến sản phẩm OCOP

Từ “điểm sáng” đơn lẻ đến sản phẩm OCOP

Bản Ít Thái trước đây thuộc xã Cao Phạ (huyện Mù Cang Chải cũ), nằm ngay “đoạn khởi động” của đèo Khau Phạ hùng vĩ, phía dưới là cánh đồng Tú Lệ nổi tiếng với loại nếp thơm trứ danh Tây Bắc. Sau sắp xếp, Cao Phạ sáp nhập với xã Tú Lệ (huyện Văn Chấn cũ) thành xã Tú Lệ - vùng đất có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng. Gần đây, bản Ít Thái bình yên vừa có thêm 1 sản phẩm OCOP trong lĩnh vực du lịch của tỉnh Lào Cai.

Sức sống mới ở Thác Tiên

Sức sống mới ở Thác Tiên

Nhờ sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), đặc biệt là Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719), thôn Thác Tiên, xã Mỏ Vàng đã vươn mình mạnh mẽ với diện mạo mới, sức sống mới.

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Vượt qua thời điểm bị bệnh vàng lá, thối rễ từng khiến cả nghìn ha cam của huyện Văn Chấn (cũ) bị xóa sổ, xã Chấn Thịnh hôm nay, sau hợp nhất 3 xã: Đại Lịch, Chấn Thịnh, Tân Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm, chuyên canh có quy mô lớn cả về số lượng và chất lượng.

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Xác định phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là một trong những chương trình trọng tâm năm 2025, Hội Nông dân tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, tạo điều cho hội viên, nhất là hội viên nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, vượt khó làm giàu.

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

fb yt zl tw