LCĐT - Từ nơi bắt đầu chảy vào đất Việt, đến hết địa phận của Lào Cai, sông Hồng qua bao ghềnh thác vẫn năm tháng mải miết bồi đắp phù sa, tạo nên những bãi đất màu mỡ. Trên những bãi bồi dọc đôi bờ sông có những người vẫn ngày ngày “tưới” mồ hôi cho cánh đồng thêm xanh.
Kỳ 1: Tảo tần bên dòng sông Mẹ…
Gió cứ hun hút thổi theo bánh xe quay đều, chúng tôi xuôi theo dòng nước, men dọc con đường bên phía tả ngạn sông Hồng - dòng sông Mẹ huyền thoại đặt chân lên bãi bồi Xuân Tăng (thành phố Lào Cai) - nơi có bến đò qua sông sang làng Múc (xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng). Đúng cữ rét nàng Bân, nắng nhẹ hanh hao chiều cuối xuân, gió dưới triền sông lùa lên cũng đủ ngấm vào da thịt cái lạnh tái tê, nhưng trên khúc sông có bãi bồi phù sa đang mướt xanh những vồng khoai lang này, những giọt mồ hôi vẫn đổ xuống. Cuối bãi, cây gạo nở rực rỡ, rụng đỏ cả một triền sông.
![]() |
Hằng ngày, chị Quế đi đò sang sông để canh tác trên bãi bồi Xuân Tăng. |
Được chúng tôi “định vị” sẵn trên bản đồ, tính từ điểm mốc ngã ba sông biên giới hòa 2 dòng xanh đỏ “Sông Hồng - sông Nậm Thi” đoạn dòng sông Hồng bắt đầu chảy trọn vẹn trong lòng đất Việt thì đây là bãi bồi chúng tôi chọn làm điểm đến đầu tiên trong hành trình. Tiếng là ở thành phố, nhưng lại là vùng đất ven đô, không nức danh như vùng đất Vạn Hòa, người Xuân Tăng dường như có cuộc sống thâm trầm nhưng cũng đầy khát vọng bình dị được nuôi dưỡng từ bàn tay và những tháng ngày tảo tần mưa nắng… bên dòng sông Mẹ. Chính vì điều ấy mà mang theo khát vọng “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, anh Nguyễn Văn Cường - người dân phường Xuân Tăng (thành phố Lào Cai) đã sang sông xây dựng tổ ấm với chị Lê Thị Quế - người làng Múc, xã Thái Niên. Tình yêu đã xây cây cầu hạnh phúc nối đôi bờ sông khi hằng ngày, từ làng Múc, anh chị lại qua đò sang bãi bồi Xuân Tăng canh tác…
Nhớ lại những ngày đầu “mướt mồ hôi” khai phá bãi bồi cũng thấm thoắt gần 10 năm, kể lại những cơ cực, vất vả lúc bấy giờ với vợ chồng nông dân Nguyễn Văn Cường có cảm giác như câu chuyện xảy ra mới vừa hôm qua. Anh Cường chia sẻ: Hồi ấy, vợ chồng tôi đi chăn trâu bên bãi bồi. Khi cắt cỏ cho trâu ăn thấy đất bãi khá bằng phẳng. Nghĩ lại lời các cụ ta xưa thường nói “Khoai đất lạ, mạ đất quen”, vậy là tôi với vợ bàn tính trồng khoai lang trên đất bãi xem sao. “Thuận vợ, thuận chồng”, ngay hôm sau, tôi mang máy sang cắt cỏ, rồi hai vợ chồng thay phiên nhau cày bừa, cuốc đất, bốc trà…
Bãi bồi cơ man là lau sậy, chít và chè vè, có khi đầu này vừa cuốc đổ đi thì đầu kia cỏ đã kịp mọc. Nhưng khó khăn không cản được ý chí, vợ chồng anh kiên trì cắt cỏ và cải tạo bãi bồi trồng khoai lấy củ, trồng ngô nếp để bán bắp tươi. Không đếm được đã biết bao giọt mồ hôi của anh Cường, chị Quế rơi xuống đất bãi bồi và cũng không biết bao nhiêu lần cuốc đất lật cỏ đến bật cả máu tay, nhưng anh chị vẫn quyết tâm bám trụ. Anh Cường nghĩ “làm nghề nông, thấy đất bỏ hoang thì tiếc lắm”. Nhưng cũng vì bãi bồi mới lại không thuộc quyền sở hữu của mình nên anh Cường đã lên phường Xuân Tăng xin phép lãnh đạo UBND phường để gia đình “mượn đất” canh tác và được chấp thuận.
Ròng rã 3 năm trời cải tạo đất bãi bồi, không quản ngày mưa, ngày nắng, đến năm thứ ba, vợ chồng anh Cường mới đánh luống để trồng khoai. 3 sào khoai lang trồng thử năm đầu tiên đúng với kinh nghiệm dân gian “khoai đất lạ”, nên cây tốt bời bời, cho ra những củ khoai lang to nặng đến 7 - 8 lạng, có củ nặng 1,3 kg. Năm đầu tiên vì canh tác bên bãi bồi cách nhà một con sông nên gần đến vụ thu hoạch, không kịp sang trông, khoai lang bị người ta đào trộm nhiều. Năm đầu tiên ấy, dù bị mất trộm, nhưng vợ chồng anh Cường cũng “vớt vát” thu được 7 triệu đồng tiền bán khoai lang củ. Sau năm đầu tiên, với người nông dân, niềm tin đã được nhen nhóm và gieo bằng mùa vụ mới, bởi lúc đầu quyết định canh tác trên bãi bồi, vợ chồng anh nghĩ rằng “chắc cũng chả được ăn đâu, cứ liều trồng thôi”. Vậy là anh Cường cùng vợ lại cần mẫn tiếp tục mở rộng diện tích canh tác trên bãi bồi. Cứ mỗi năm khai phá một ít, dần dần, bãi bồi hiện tại đã rộng chừng 60 - 70 nghìn m2. Ban đầu chỉ có gia đình anh canh tác trên bãi bồi, nhưng sau đó, thấy anh chị Cường - Quế “ăn nên làm ra”, đã có một số hộ nhà gần bãi bồi cũng ra canh tác. Vợ chồng anh chị Cường - Quế không ngần ngại chia đất bãi cho mọi người cùng làm. Hiện tại, có 9 hộ đang canh tác trên bãi bồi Xuân Tăng.
Trong câu chuyện, anh Cường kể lại cho chúng tôi nghe lịch sử “khai sinh” bãi bồi. Trận lũ năm 1986 đã cuốn trôi và lở đất đi, chỉ còn trơ lại đá sỏi. Hơn 10 năm kể từ trận lũ ấy, cứ mỗi mùa lũ, bãi lại được bồi dần những lớp phù sa màu mỡ, nhưng hồi ấy vẫn chỉ là bãi bồi cho gia đình sinh sống ở ven bờ sông Hồng làm nơi chăn thả trâu, cắt cỏ cho trâu. Cách đây khoảng chục năm, cũng có gia đình bên Xuân Tăng đã ra bãi bồi trồng ngô, nhưng đến thời kỳ ra bắp, phun râu là cây ngô lại chết héo… Một, hai vụ không hiệu quả, người dân không trồng ngô nữa.
Trồng mấy vụ khoai lang, vợ chồng anh Cường lại “bàn mưu, tính kế” trồng thêm táo và một số cây trồng khác. Năm 2015, trồng 30 cây táo chua, cây lên to bằng bắp tay, đang ra hoa thì bị nước ngập hỏng hết. 3 năm kiên trì trồng táo nhưng thấy không ăn thua, giờ thì gia đình anh không trồng táo nữa mà chỉ trồng các loại cây ngắn ngày. Thực sự canh tác trên bãi bồi bấp bênh như “đánh bạc với trời”, bởi có những năm chưa kịp thu hoạch đã bị lũ cuốn trôi sạch. Còn nhớ năm 2016, gia đình tra 3 kg lạc giống, 4,5 kg ngô giống. Năm ấy, ngô có bắp, lạc có củ, chỉ 1 tuần nữa là được thu thì bị lũ ngập nửa mét nước… mất trắng. Sau mỗi đận lũ, các gia đình lại phải mất 1 tuần trời san gạt lại cho bằng phẳng. Năm 2017, trên 1 mẫu đất trồng khoai lang ở đất bãi, gia đình anh thu được 70 triệu đồng tiền bán củ và trồng thêm 1 vụ ngô bán bắp tươi cũng có nguồn thu 20 triệu đồng. Cho dù cũng phải tần tảo bỏ công sức, mất mồ hôi rồi trông trời đoán định thời tiết để tránh lũ, nhưng vì thấy hiệu quả trồng khoai lang “cắm dây là có củ” nên vợ chồng anh chị Cường - Quế vẫn kiên trì trồng khoai lang…
![]() |
Trù phú những bãi bồi ven sông Hồng. |
Bãi bồi này năm nào cũng ngập nước ít nhất 2 lần, nhiều năm bị ngập 3 lần. Cứ mỗi lần ngập nước, bãi lại được bồi thêm một lớp phù sa dày. Năm 2017, bãi bồi cao thêm hơn nửa mét đất phù sa. Những năm trước, trung bình mỗi năm bãi bồi thêm khoảng 20 cm, có năm khoảng 30 cm. Thế nên sau 7 - 8 năm canh tác trên đất bãi, anh Cường đã biết nhìn mực nước để xuống giống kịp thời vụ, chạy đua với mùa nước lũ… Cứ tầm cuối tháng 8, đầu tháng 9 hằng năm, anh chị mang máy cắt cỏ, sau đó đốt sạch cỏ đã phơi khô, cày lên cho hả đất 3 lần, sau đó mới đánh luống để xuống giống.
Không chỉ những ngày tháng phải cuốc đất, bốc trà cải tạo bãi bồi, mỗi lần thu hoạch vào mùa nắng tháng Năm “kén tằm vàng óng”, đất bãi nóng như rang cát, phồng rộp cả chân… Có canh tác trên đất bãi mới thấy nỗi vất vả của nhà nông “hai sương, một nắng” nhưng bù lại đất không phụ công người. Với hơn 1 mẫu đất, vào vụ trồng khoai, làm cỏ, vắt dây, cắt tỉa phát lá và dỡ củ, bình quân gia đình anh Cường phải thuê 8 - 10 lao động với mức thù lao cho một người là 200 nghìn đồng/ngày.
Ngoài bãi bồi do vợ chồng anh Cường đã cải tạo đất và đang canh tác, phía dưới bến đò sang làng Múc, nối liền với một bãi bồi cũng có khoảng hơn chục hộ tại tổ 4, tổ 5 của phường Xuân Tăng đang trồng khoai lang, trồng ngô… Cuộc sống của gia đình anh Cường và gần 20 hộ dân đang canh tác bên bãi bồi cứ trôi đi trong bình lặng của sông Hồng những mùa nước lên rồi mùa nước cạn, chứng kiến biết bao tháng năm “lắng phù sa in bóng đôi bờ”. Vào mùa “vỡ đất”, cây gạo cuối bãi rụng hoa đỏ cả triền sông. Dưới những vầng hoa như thắp lửa ấy, những đường cày xáo đất, lật phù sa cứ thế “kẻ chỉ” theo tiếng mõ trâu khua lốc cốc. Những giọt mồ hôi lam lũ hòa vào mưa nắng tưới lên vồng ngô chát mặn theo năm tháng để hạt nảy mầm, để cây ra bắp nuôi biết bao cuộc đời buồn vui theo phận người.
Kỳ 2: Mưu sinh trên đảo Trát