![]() |
LCĐT - Bao đời qua, trải dọc cuộc trường chinh dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, người Lào Cai luôn giương cao ngọn cờ cách mạng, nỗ lực vượt qua mọi gian khó để xây dựng quê hương giàu đẹp. Trên bước đường phát triển ấy, các thế hệ Lào Cai vẫn luôn nhắc nhớ về sự thủy chung, nghĩa tình của người miền xuôi, theo tiếng gọi của Đảng đã vượt núi, băng sông cùng người dân bản địa viết nên những kỳ tích.
![]() |
Từ khi mới thành lập, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, xây dựng cơ sở cách mạng và củng cố địa bàn miền núi, biên giới. Đặc biệt, sau Hội nghị Trung ương 5 khóa III về phát triển nông nghiệp, củng cố hợp tác xã vào tháng 9/1960, tháng 2/1963 Bộ Chính trị có Nghị quyết riêng nhằm phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc. Theo đó, Bộ Chính trị chủ trương tiến hành cuộc vận động lớn nhằm điều chỉnh nhân lực, vật lực và tài lực giữa vùng xuôi và vùng núi. Những biện pháp nhằm tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, thuyết phục đồng bào miền xuôi lên khai hoang, xây dựng kinh tế - xã hội, xây dựng quê hương mới được đẩy mạnh. Các tỉnh miền xuôi và các tỉnh miền núi cũng tổ chức kết nghĩa để thêm gắn kết, tạo sự giao lưu, trao đổi, chia sẻ và hợp tác.
![]() |
Cùng nằm trên tuyến hành lang kinh tế Hải Phòng (trước là Kiến An) - Hà Nội - Lào Cai ( Việt Nam) - Côn Minh (Trung Quốc) và lại có tuyến đường sắt Việt Điền nối liền, nên Kiến An (nay là thành phố Hải Phòng) và Lào Cai có mối quan hệ lâu đời. Thực hiện chủ trương lớn của Đảng, đầu năm 1960, đoàn cán bộ của Tỉnh ủy Kiến An đã đến Lào Cai khảo sát, nghiên cứu một số địa bàn. Tháng 12/1961, Lào Cai và Kiến An tổ chức lễ kết nghĩa và ra nghị quyết chung: “… Khâu quan trọng trong sự lãnh đạo của 2 Tỉnh ủy là làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc. Lãnh đạo sát sao việc chuẩn bị địa bàn, tổ chức chu đáo việc đưa và đón đồng bào khai hoang, tạo mọi điều kiện cho đồng bào khai hoang nhanh chóng ổn định đời sống, bắt tay vào sản xuất, cùng cơ sở thực hiện tốt mọi nhiệm vụ đảng bộ địa phương đã đề ra…”. Tỉnh Kiến An cũng đề ra kế hoạch, trong 5 năm sẽ vận động và bố trí 8 - 9 vạn đồng bào lên xây dựng kinh tế - xã hội ở Lào Cai.
![]() |
Các đoàn công tác của Lào Cai và Kiến An cùng nghiên cứu địa bàn chuẩn bị điều kiện đón đồng bào lên khai hoang tại Lào Cai. |
Cùng thời gian này, Lào Cai đã làm việc với đoàn đại biểu các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… lên nghiên cứu địa bàn, chuẩn bị điều kiện cho việc đưa và đón đồng bào các tỉnh lên phát triển kinh tế ở Lào Cai. Xác định đây là chủ trương lớn của Đảng, không chỉ để phù hợp với đặc điểm phát triển của từng vùng miền, mà còn là nhiệm vụ chính trị phát triển đất nước, các tỉnh đều đưa ra nghị quyết riêng về việc đưa đồng bào lên phát triển kinh tế - xã hội ở Lào Cai, trong đó đề cao sự xung phong, đi đầu của thanh niên trẻ, của những cán bộ, đảng viên gương mẫu. Như Nghị quyết của Tỉnh ủy Thái Bình đề ra giai đoạn 1961 - 1965 sẽ chuyển 13 vạn dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở các tỉnh miền núi, trong đó có Lào Cai...
![]() |
![]() |
Sau một hồi trầm ngâm, để những ký ức xưa ùa về, ông Lương Xuân Mầu, nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy kể: Khó có thể đong đếm, định lượng được những đóng góp của đồng bào miền xuôi đối với Lào Cai từ công cuộc khai hoang ấy. Tuy nhiên, nhìn vào Lào Cai hôm nay và nhớ về quá khứ của mấy mươi năm về trước thì đã là câu trả lời quá đủ cho sự nỗ lực vượt khó của đồng bào các tỉnh miền xuôi. Và cũng là câu trả lời cho bất cứ một câu hỏi nào về việc đồng bào khai hoang miền xuôi đã có đóng góp gì cho quê hương mới, là minh chứng sống động nhất cho kết quả đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trong hành trình hơn 60 năm nhiều cố gắng vươn lên.
![]() |
Hiện chưa có số liệu thống kê cụ thể về số lượng người miền xuôi hoặc quê gốc miền xuôi hiện đang sinh sống, học tập và làm việc ở Lào Cai, nhưng chắc chắn đó là số lượng không nhỏ. Có những thôn, bản, người gốc miền xuôi ở xen ghép với đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng có nhiều thôn, bản có đến 90% - 100% là người miền xuôi, và phần đa giờ là những thế hệ thứ 2, thứ 3. Vẫn với phẩm chất nhạy bén thị trường và các vấn đề xã hội, chịu thương, chịu khó, thế hệ hôm nay đang viết tiếp ước mơ của ông cha thuở trước “rút ngắn khoảng cách giữa miền ngược và miền xuôi”. Bao tấm gương cán bộ, đảng viên, bao mô hình kinh doanh, sản xuất giỏi của tỉnh những năm qua đều gọi tên những thế hệ “hậu sinh” ấy. Những câu chuyện, những cá nhân điển hình như ông Lương Văn Muội, Lương Ngọc Hoản ở xã Bảo Nhai (Bắc Hà), ông Đỗ Văn Thiệp và vợ là Trần Thị Quyết xã Xuân Quang (Bảo Thắng) mà chúng tôi giới thiệu trong loạt bài viết này đã phần nào chứng minh thành quả lớn lao sự gắn kết, sẻ chia của người miền xuôi với người dân bản địa, góp phần làm nên một Lào Cai năng động, phát triển.
Bảo Thắng là nơi đón đoàn khai hoang đầu tiên của tỉnh Kiến An lên xây dựng vùng kinh tế mới và cũng là huyện được đón người dân miền xuôi lên đông nhất theo chương trình này. Ở khắp các xã, thị trấn của Bảo Thắng ngày nay đều có con em của người miền xuôi sinh sống. Giống như lớp cha ông đi trước, họ cũng chọn Bảo Thắng làm quê hương mới, cả đời cống hiến, dựng xây. Từ những viên gạch nhỏ, họ đã cùng với người dân địa phương xây dựng ước mơ lớn với kết quả đầy tự hào, năm 2021, Bảo Thắng là huyện đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới.
![]() |
Tự hào về bước phát triển của quê hương, ông Nguyễn Quang Úy, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Bảo Thắng chia sẻ: Sự giao thoa, cộng hưởng về trình độ, kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội giữa người miền xuôi và người dân bản địa đã tạo nên kết quả tuyệt vời cho quê hương Bảo Thắng. Diện mạo nông thôn ngày càng đổi mới, đời sống, thu nhập của người dân cũng được nâng cao. Các vùng quê ở Bảo Thắng đang trở thành những vùng quê tươi đẹp, vùng quê “đáng sống”. Chúng tôi kỳ vọng, phát huy truyền thống của quê hương và mỗi dòng họ, Bảo Thắng sẽ tiếp tục bứt phá, không chỉ là huyện nông thôn mới của tỉnh, mà phải là huyện nông thôn mới điển hình của khu vực và cả nước.
Không chỉ Bảo Thắng, đến khắp các huyện, thị, thành phố trong tỉnh ngày nay, đều dễ dàng gặp những cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến là con em của đồng bào miền xuôi lên khai hoang thuở trước. Họ không chỉ là những cán bộ, đảng viên luôn đi đầu trong các phong trào ở nông thôn, mà còn công tác ở các sở, ngành, đơn vị là những thầy giáo, cô giáo, bác sỹ, những chiến sĩ công an, bộ đội đang ngày đêm miệt mài cống hiến. Mỗi người một miền quê, mỗi người đến với Lào Cai ở từng khoảng thời gian khác nhau, nhưng họ đều chung một ý chí và khát vọng dựng xây quê hương mới phát triển, giàu đẹp.
![]() |
Quê hương Lào Cai ngày càng phát triển. |
Nhìn lại lịch sử xây dựng và kiến thiết Lào Cai trước và sau khi tái lập tỉnh đến nay, đóng góp của những cán bộ, đảng viên từ quê hương miền xuôi lên, khó có thể thống kê đầy đủ. Tôi nhớ có một bài báo của tỉnh Lào Cai từng viết: “Lịch sử đương đại Lào Cai được viết lên, một phần không nhỏ bởi sự đóng góp của những người con miền xuôi đi xây dựng kinh tế mới”. Và trong đó, công đầu phải kể về những cán bộ, đảng viên, những người luôn “đi trước, làm trước”.
Thời gian đã chứng minh tất cả, từ một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước, Lào Cai đang trở thành tỉnh phát triển khá của vùng Trung du, miền núi phía Bắc. Bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương trong 30 năm tái lập đều đạt trên 10%/năm. Lào Cai trở thành đầu cầu quan trọng trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hàng loạt dự án lớn được xây dựng đem lại tầm vóc, vị thế mới cho mảnh đất “sông thì đầu nguồn, núi thì tột đỉnh”. Trong tương lai gần, Lào Cai đang phấn đấu trở thành cực tăng trưởng, là trung tâm kết nối, trung tâm phát triển của vùng Trung du, miền núi Bắc Bộ và của cả nước.
![]() |
Bản làng ấm no trên vùng biên viễn. |
Những bước chân “Tây Bắc tiến” năm ấy, giờ người còn, người đã mất, người nhớ, người quên về thời thanh xuân đầy say mê, sôi nổi. Dẫu thời gian có nghiệt ngã thế nào thì âm hưởng hào hùng ấy vẫn còn lưu mãi trong đất trời Tây Bắc, như lời cảm ơn chân thành nhất đến những cán bộ, đảng viên và Nhân dân miền xuôi đã không quản gian khó, một lòng đi theo Đảng, nghe theo lời dạy của Bác, để làm nên những kỳ tích như những bản hùng ca. Đó sẽ là tấm gương lớn để những thế hệ sau soi chiếu và tự rèn luyện bản thân sống sao cho xứng đáng với lý tưởng, hoài bão của thế hệ cha anh đi trước.