Trong những buổi họp thôn Nả Háng Tủa Chử, xã Púng Luông, bên cạnh công việc cần bàn thì đưa ra thì nội dung của hương ước cũng được đưa ra để nhắc nhở các hộ dân trong thôn thực hiện. Nội dung của hương ước ghi rất rõ những việc nên làm và không nên làm trên mọi lĩnh vực, trong đó có các quy định cụ thể về hành vi xâm hại rừng, mức xử phạt và biện pháp xử lý. Từ đó, giúp người dân tuân thủ và thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng.
 
 Ông Lù Phàng Khày – già làng thôn Nả Háng Tủa Chử cho biết: “Hương ước được chính người dân đóng góp ý kiến và xây dựng, quy định cụ thể, rõ ràng. Trong công tác bảo vệ rừng, người nào vi phạm lần đầu nộp phạt 500 nghìn đồng, lần thứ 2 là 1,5 triệu đồng; nếu vi phạm lần thứ 3 thì báo chính quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Do vậy, người dân trong thôn đã chấp hành và tích cực tham gia bảo vệ rừng”.
 
 Đối với cộng đồng dân cư ở các thôn vùng cao, hương ước tồn tại từ lâu, đến nay được cụ thể hóa gắn với trách nhiệm của người dân. Việc duy trì, đổi mới để phù hợp với điều kiện thực tế đã tạo ra “lệ làng” – một hình thức tự quản hiệu quả dựa trên sự đồng thuận của dân bản. Không chỉ dừng lại ở lời nói, các bản đều cụ thể hóa thành quy định rõ ràng: khu vực rừng cấm, rừng đầu nguồn, quy định việc lấy củi, lấy mật ong … đều được bàn bạc dân chủ, ghi thành văn bản, được chính quyền xã công nhận.
 
 Trưởng thôn Nả Háng Tùa Chử - ông Mùa A Mạnh cho biết: “Khi có hương ước, việc xử phạt cũng dễ dàng, bà con luôn chấp hành quy định do chính cộng đồng đã đề ra”.
 
  
 Hiện, thôn Nả Háng Tùa Chử đang quản lý gần 830 ha rừng các loại, với 150 hộ dân tham gia. Mỗi năm, diện tích rừng này mang lại hơn 300 triệu đồng tiền dịch vụ môi trường rừng, tạo nguồn sinh kế ổn định, giúp người dân thêm gắn bó, có trách nhiệm hơn với rừng. Điểm đặc biệt khiến hương ước có sức sống bền vững chính là sự đồng thuận. Khác với văn bản hành chính, hương ước được ban hành từ chính nhu cầu tự quản của người dân, được bàn bạc, thống nhất và tự nguyện thực hiện. Nhờ đó, người dân nâng cao ý thức trong việc bảo vệ tài nguyên rừng. 100% diện tích rừng đầu nguồn của bản được bảo vệ xanh tốt. Nhiều hộ còn phát triển thêm mô hình trồng sa nhân, cây dược liệu dưới tán rừng, vừa có thu nhập, vừa gắn bó với rừng.
 
 Ông Sùng A Chay - Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm khu vực Púng Luông cho biết: “Hương ước của từng bản quy định rất chi tiết và gần gũi bà con, nên giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình tuyên truyền cũng như quản lý, bảo vệ rừng thuận lợi hơn so với thời gian trước”.
 
 Toàn xã Púng Luông hiện có gần 19.000 ha rừng được giao cho người dân tại 25 thôn, bản quản lý. Trong đó, hơn 11.000 ha được chi trả dịch vụ môi trường rừng với khoảng 10 tỷ đồng mỗi năm. Những quy định tưởng chừng giản dị trong hương ước lại mang sức mạnh lớn lao, giúp rừng được bảo vệ, đời sống người dân ngày càng ổn định.
Khi người dân trở thành chủ thể của công tác bảo vệ rừng, tình trạng chặt phá rừng giảm mạnh, độ che phủ rừng ở nhiều xã vùng cao tăng đều qua từng năm. Không chỉ bảo vệ rừng, hương ước còn góp phần giữ nếp sống, phong tục, tinh thần đoàn kết – tạo nền tảng để phát triển bền vững. Thực tế cho thấy, ở nơi nào hương ước được duy trì nghiêm túc, nơi đó rừng xanh và đời sống người dân cũng khá hơn.
 
 Phó Chủ tịch UBND xã Púng Luông -ông Thào A Phềnh cho biết thêm: “Trên cơ sở hương ước của từng thôn, bản, chúng tôi cùng họp, thống nhất thành quy ước chung cho tất cả thôn, bản trên địa bàn xã; nhờ đó thuận lợi trong công tác quản lý, bảo vệ rừng cũng như xử lý vi phạm".
 
 Nếu Luật Lâm nghiệp là cơ sở pháp lý thì hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư lại là sợi dây gắn kết người dân với rừng – nơi luật pháp hòa quyện cùng tình làng, nghĩa bản. Rừng xanh được gìn giữ, văn hóa được bảo tồn, cuộc sống người dân vùng cao thêm bình yên. Hương ước bảo vệ rừng ở xã Púng Luông là minh chứng sinh động cho sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
 
 
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
  