Cơ hội, thách thức trong giai đoạn tới của xuất khẩu nông sản chủ lực

Nhờ có nhiều kỷ lục về nông sản, ngành nông nghiệp vẫn tiếp tục giữ vững mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 54-55 tỷ USD trong năm 2023 dù gặp khó khăn do tác động tiêu cực từ sức mua giảm mạnh.

Người dân ở Đắk Nông thu hoạch cà phê.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp ngành nông nghiệp Việt Nam tham gia thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nằm trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á.

Nhờ có nhiều kỷ lục về nông sản, ngành nông nghiệp vẫn tiếp tục giữ vững mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 54 - 55 tỷ USD trong năm 2023 dù gặp khó khăn do tác động tiêu cực từ sức mua giảm mạnh của nhiều thị trường lớn.

Nhiều cơ hội thúc đẩy xuất khẩu

Hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực nhờ cắt giảm thuế quan như các mặt hàng gạo, càphê, thủy sản, rau quả. Nông sản Việt Nam có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường, đối tác phù hợp, có nhiều lợi thế hơn trong thương mại.

Bên cạnh đó, với những lợi thế về nông nghiệp và điều kiện tự nhiên, nông sản Việt Nam có những thế mạnh nhất định để cạnh tranh trên thị trường thế giới với nông sản xuất khẩu.

Thứ nhất là nhu cầu về lương thực, thực phẩm có xu hướng tăng mạnh. Trong bối cảnh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, sự mất ổn định và biến động về kinh tế, chính trị thế giới, mối lo ngại về an ninh lương thực mở ra nhiều cơ hội trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

Nông sản Việt Nam được xuất khẩu sang rất nhiều thị trường trên thế giới đặc biệt là những thị trường lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật Bản… Với nhiều thuận lợi trong sản xuất các mặt hàng nông sản chủ lực như hoa quả vùng nhiệt đới đặc trưng cho khí hậu của Việt Nam và nhiều mặt hàng đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng được nhu cầu nhiều thị trường, trữ lượng ngày càng lớn và có thể cung cấp cho những thị trường có nhu cầu tiêu thụ cao như Trung Quốc. Nhiều nông sản của Việt Nam giữ những vị trí đứng đầu trong xuất khẩu trên thế giới như càphê, lúa gạo, hạt điều…

Chế biến điều xuất khẩu.

Thứ hai là Việt Nam tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó có nhiều cam kết rất chặt chẽ. Trước tiên là lộ trình giảm thuế về 0% cho hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời có nhiều quy định mới về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật, lao động, môi trường. Các FTA thế hệ mới tác động tích cực tới hoạt động thương mại, xuất khẩu thông qua thúc đẩy các dòng thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ.

Như hiệp định EVFTA từ khi có hiệu lực từ tháng 8/2020, các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam xuất sang EU đã tăng lên hơn 20% trong những năm vừa qua. Các FTA thế hệ mới cũng góp phần giúp xuất khẩu Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các nước trong thị trường nội khối có mức tăng trưởng khá cao.

Thứ ba là sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh mẽ của khoa học công nghệ với việc ứng dụng nền tảng số sẽ đem lại nhiều cơ hội cho chuyển đổi chuỗi giá trị nông sản Việt Nam. Công nghệ số sẽ hỗ trợ, góp phần chuyển từ hệ thống canh tác và phân phối truyền thống sang hệ thống canh tác thông minh, phân phối hiện đại tích hợp với các nền tảng trực tuyến và kết nối các quốc gia với nhau.

Thứ tư là phát triển chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu. Chuỗi cung ứng nông sản bao gồm doanh nghiệp, nhà thu gom hàng nông sản, nhà sản xuất, chế biến và phân phối, các đơn vị cung ứng dịch vụ logistics tham gia vào quá trình chuyển đổi hàng nông sản từ trang trại nuôi trồng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Mục tiêu của chuỗi là đảm bảo cung cấp một cách hiệu quả cho thị trường quốc tế sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, an toàn, tiện lợi với mức giá phù hợp và sự lựa chọn đa dạng, cũng như thân thiện với môi trường, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng trên thị trường.

Không ít thách thức

Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện, mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức mới trong thời gian tới.

Trước hết là quá trình hội nhập quốc tế làm gia tăng cạnh tranh. Việt Nam đã ký kết tham gia và đàm phán 17 FTA. Tham gia FTA sẽ thu hút nhiều vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, đây là một thách thức lớn đặt ra, xu hướng đầu tư vào ngành nông nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường.

Chế biến cá tra phi lê xuất khẩu ở nhà máy của Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Cửu Long An Giang.

Với lợi ích thu được từ Hiệp định, nhất là những ưu đãi về thuế quan, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư tại Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ dịch chuyển nhà máy từ nhiều quốc gia khác sang Việt Nam, gây áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nông nghiệp trong nước. Khi đó nông sản trong nước sẽ bị cạnh tranh khốc liệt với sản phẩm của các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm.

Quá trình hội nhập làm thu hẹp một số lĩnh vực sản xuất có khả năng cạnh tranh thấp. Các nước đang phát triển mạnh sản xuất nông sản với chất lượng cao cũng trở thành đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu gạo như Campuchia, Myanmar; xuất khẩu thủy sản như Ấn Độ, Mexico, Indonesia.

Tiếp đến là yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng nông sản xuất khẩu ngày càng cao. Thị trường tiêu dùng hàng nông sản hướng đến các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, trách nhiệm xã hội đòi hỏi các sản phẩm nông, lâm, thủy sản được khai thác hợp lý, từ đó đưa ra các tiêu chuẩn tương ứng về nguồn gốc sản phẩm như thủy sản, rau quả, gỗ...

Các quốc gia và người tiêu dùng trên thế giới đang đặt mục tiêu phát triển bền vững, giảm phát thải carbon. Nông sản Việt Nam đối mặt với nguy cơ chịu mức thuế đối với sản phẩm có mức phát thải lớn. Đây cũng là một trong những thách thức với xuất khẩu nông sản Việt Nam trong khi hệ thống truy xuất nguồn gốc, quản lý khai thác chưa được thực hiện bài bản, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp bắt đầu quá trình đổi mới để thích ứng được với bối cảnh mới.

Ngoài ra, nông sản cũng sẽ đối mặt với nhiều rào cản thương mại, chính sách nhập khẩu của các nước với những yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường và xã hội.

Kho gạo xuất khẩu tại ấp Bình Cang, xã Bình Thành, huyện Thủ Thừa (Long An).

Thứ ba là chủ nghĩa bảo hộ thương mại xuất hiện trở lại. Những biến động kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới như dịch bệnh COVID-19, xung đột Nga - Ukraine, xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, xung đột lãnh thổ trong các khu vực và giữa các nền kinh tế lớn, thay đổi trong chính sách thương mại của các quốc gia dẫn đến xu hướng bảo hộ gia tăng. Thêm vào đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành và hiệu quả sản xuất, giảm sức cạnh tranh về giá của nông sản Việt Nam, giá xăng dầu biến động tạo bất ổn trong hệ thống sản xuất kinh doanh.

Thứ tư là phải đáp ứng yêu cầu cao về công nghệ. Đây vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn đối với phát triển công nghệ ngành nông nghiệp. Việt Nam có nông nghiệp chưa thực sự phát triển, sản xuất còn manh mún, năng suất thấp, công nghệ lạc hậu.

Để đảm bảo các quy định về kỹ thuật, quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn về chất lượng, đáp ứng yêu cầu về môi trường đối với xuất khẩu nông sản chủ lực, cần đáp ứng các yêu cầu về công nghệ sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, đặc biệt là công nghệ số như hiện nay.

Để làm được cần đầu tư mạnh vào công nghệ, máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại, ứng dụng nền tảng số, công nghệ số vào quy trình sản xuất, kinh doanh, đây là một thách thức nhưng cũng là điều kiện để tạo ra năng lực cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu của Việt Nam.

Nuôi trồng và thu hoạch tôm nước lợ tại trang trại công nghệ cao ở Sóc Trăng.

Thách thức cuối cùng là nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm cùng với biến đổi khí hậu. Nguồn tài nguyên đang dần bị suy thoái và cạn kiệt, sự gia tăng dân số, phát triển công nghiệp, đô thị hóa làm thu hẹp diện tích đất đai, diện tích rừng đầu nguồn. Nước sông, biển đang bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng nước ngày càng xấu đi do có nhiều độc tố từ các chất thải kim loại nặng, chất thải hữu cơ, vô cơ từ sinh hoạt, sản xuất, các dư lượng hóa dược nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.

Ngoài ra, ngành nông nghiệp luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ các tác động của thiên tai như biến đổi khí hậu dẫn đến các hình thái thời tiết xảy ra bất thường, nhiệt độ tăng cao, mưa đá, nước biển dâng, xâm nhập mặn mức độ nghiêm trọng hơn, dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất và kinh doanh hàng nông sản trong đó đặc biệt là các hàng nông sản chủ lực như gạo, càphê, rau quả, thủy sản, gỗ.

VietnamPlus

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Tà Lành vượt khó xây dựng nông thôn mới

Tà Lành vượt khó xây dựng nông thôn mới

Địa hình thôn Tà Lành, xã Gia Hội (tỉnh Lào Cai) chủ yếu là đồi núi cao, đời sống người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp... Dù còn nhiều khó khăn nhưng đồng bào dân tộc Dao, dân tộc Mông ở Tà Lành quyết tâm vượt khó để hoàn thành xây dựng nông thôn mới.

Mỏ Vàng hướng tới sự phát triển toàn diện

Mỏ Vàng hướng tới sự phát triển toàn diện

Sau khi hợp nhất, xã Mỏ Vàng đã cụ thể hóa các mục tiêu nâng cao chỉ số hạnh phúc, tập trung phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh và cải thiện môi trường sống; phấn đấu hết năm 2025, tỷ lệ lao động trong độ tuổi qua đào tạo đạt 65%, tăng 12% so với năm 2020, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ đạt 30%, tăng 8% so với năm 2020; giải quyết việc làm mới cho trên 825 lao động, tăng 15% so với năm 2020, phấn đấu thu nhập bình quân đầu người đến năm 2030 đạt 60 triệu đồng.

“Chìa khóa" nâng tầm nông sản vùng cao

“Chìa khóa" nâng tầm nông sản vùng cao

Trong bối cảnh nông nghiệp Lào Cai bước vào giai đoạn phát triển mới, hướng đến sản xuất hàng hóa chất lượng cao, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, việc nâng cao năng lực hợp tác xã (HTX) nông nghiệp trở thành yêu cầu tất yếu. Tăng cường kiến thức quản trị, ứng dụng công nghệ số và chế biến hiện đại không chỉ giúp HTX thoát khỏi tư duy sản xuất nhỏ lẻ, còn là “chìa khóa” gia tăng giá trị, đưa nông sản vùng cao vươn xa, hội nhập bền vững.

Nhà sáng chế máy nông nghiệp không bằng cấp

Nhà sáng chế máy nông nghiệp không bằng cấp

Từ một thợ sửa xe máy ở vùng quê ngoại thành Hà Nội, bằng sự kiên trì và niềm đam mê sáng chế, Tạ Đình Huy đã tạo ra những chiếc máy nông nghiệp đa năng, giúp thay đổi phương thức canh tác của nhiều nông hộ. Anh đã góp phần biến giấc mơ cơ giới hóa nông thôn thành hiện thực.

Bước đột phá trong chế biến gỗ rừng trồng

Bước đột phá trong chế biến gỗ rừng trồng

Nhiều năm qua, ngành chế biến gỗ của Lào Cai vẫn chủ yếu xuất khẩu thô, giá trị thấp. Nắm được thực trạng đó, từ cuối năm 2022, Công ty Cổ phần Yên Thành (xã Yên Bình) đã triển khai Dự án “Ứng dụng khoa học và công nghệ sản xuất gỗ ghép khối từ ván bóc gỗ rừng trồng” với sự đồng hành chuyển giao công nghệ của Viện Nghiên cứu công nghiệp rừng.

Giữ "hộ chiếu xanh" cho nông sản

Giữ "hộ chiếu xanh" cho nông sản

Việc Lào Cai được cấp 130 mã số vùng trồng cho các nông sản chủ lực được ví như tấm “hộ chiếu xanh”, mở ra cơ hội xuất khẩu, đặc biệt là vào thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, việc duy trì và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn khắt khe đang là thách thức không nhỏ, đòi hỏi sự thay đổi toàn diện từ tư duy đến hành động của mỗi nông dân và hợp tác xã.

Kinh tế tập thể: Nâng tầm sản phẩm OCOP, thay đổi diện mạo nông thôn miền núi

Kinh tế tập thể: Nâng tầm sản phẩm OCOP, thay đổi diện mạo nông thôn miền núi

Khu vực kinh tế tập thể (KTTT) của tỉnh Lào Cai đang chứng kiến những bước chuyển mình mạnh mẽ, tăng nhanh cả về chất và lượng. Không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung, các hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác (THT) đang khẳng định vai trò nòng cốt trong tạo việc làm, thực hiện an sinh xã hội và góp phần thay đổi diện mạo nông thôn mới.

Rừng nghiến cổ thụ Sín Chải ẩn mình giữa đại ngàn

Rừng nghiến cổ thụ Sín Chải ẩn mình giữa đại ngàn

Rừng nghiến Sín Chải, xã Mường Khương được ví như "kho vàng xanh" ẩn mình giữa đại ngàn, là di sản thiên nhiên vô giá. Khu rừng không chỉ có giá trị về mặt lâm nghiệp, đa dạng sinh học mà còn là niềm tự hào, biểu tượng cho nỗ lực gìn giữ và bảo vệ của cộng đồng người Mông nơi đây.

Lòng dân rộng mở những tuyến đường

Lòng dân rộng mở những tuyến đường

Ở xã Mường Bo, những tuyến đường bê tông nối liền các thôn không chỉ được làm nên từ xi măng, cát sỏi, mà còn bằng sự đồng lòng hiến đất, góp công của Nhân dân. Mỗi mét đất vườn, mỗi ngày công chung sức là minh chứng cho tinh thần “ý Đảng hợp lòng dân”, viết nên câu chuyện đổi thay nơi vùng quê cách mạng.

Lợi ích kinh tế từ canh tác rau đa tầng

Lợi ích kinh tế từ canh tác rau đa tầng

Xây dựng hệ thống giàn bê tông kiên cố, trang bị hệ thống tưới tự động để canh tác các loại rau quả leo giàn, dưới đất trồng thêm rau ngắn ngày, rau gia vị, đó là cách mà nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh áp dụng để gia tăng giá trị kinh tế từ canh tác rau màu. Mô hình này hiện được nhân rộng ở nhiều địa phương.

Nghĩa Tâm phục hồi vùng cây ăn quả có múi theo hướng bền vững

Nghĩa Tâm phục hồi vùng cây ăn quả có múi theo hướng bền vững

Từng là “thủ phủ cam” của huyện Văn Chấn (cũ), Nghĩa Tâm đã trải qua giai đoạn khó khăn khi dịch bệnh và đất thoái hóa khiến hàng loạt vườn cam chết trắng. Hôm nay, nhờ sự thay đổi cách làm của nông dân cùng sự đồng hành chính quyền, sự hỗ trợ của hợp tác xã vùng cây có múi nơi đây đang hồi sinh theo hướng bền vững.

Phong Hải nâng tầm giá trị cây quế

Phong Hải nâng tầm giá trị cây quế

Xác định cây quế là thế mạnh kinh tế, những năm gần đây xã Phong Hải đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao giá trị, xây dựng thương hiệu và đưa sản phẩm quế vươn xa trên thị trường.

Lợi ích kép từ canh tác lúa thông minh

Lợi ích kép từ canh tác lúa thông minh

Từ kết quả khả quan ở vụ xuân 2025, mô hình canh tác lúa thông minh, giảm phát thải khí nhà kính đã được nhân rộng tại nhiều địa phương trong tỉnh. Cách làm mới không chỉ giúp nông dân giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao thu nhập, mà còn góp phần bảo vệ môi trường, mở ra cơ hội từ thị trường tín chỉ carbon.

fb yt zl tw