Chuyện tưởng đùa mà lại là chuyện thật! Đó là đình làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
Đình làng Mông Phụ sau khi được Cục Di sản văn hóa (Bộ VH-TT&DL) sửa chữa. |
Đình được xây dựng từ thời Lê (Lê Vĩnh Tộ), đến năm Tự Đức (trên câu đầu có dòng chữ: Tự Đức Kỷ Mùi đông - Tự Đức, mùa đông năm Kỷ Mùi) đình Mông Phụ được sửa chữa và xây dựng lại như hiện nay. Năm 1984, đình Mông Phụ được Bộ Thông tin - Văn hóa (nay là Bộ VH-TT&DL) xếp hạng “Di tích lịch sử cấp quốc gia”!
Năm 2005, xã Đường Lâm được Bộ VH-TT&DL ký quyết định cộng nhận “Di tích kiến trúc nghệ thuật”. Mấy năm sau đình Mông Phụ (và các công trình đình đền, chùa miếu của xã Đường Lâm) được đầu tư sửa chữa trên quy mô lớn… Dân làng bảo nhau: Kể từ ngày đó dân làng mất… đình!
Theo Luật Di sản văn hóa, những công trình được Nhà nước xếp hạng đều nằm trong diện được quản lý rất chặt chẽ. Bất cứ hành vi nào kể cả việc tu bổ và sửa chữa nếu không được phép đều là vi phạm. Tùy theo mức độ mà chiểu theo pháp luật có thể phải tù tội!
Quả là một bước tiến dài trong việc quản lý các công trình văn hóa!
Suy cho cùng các công trình tâm linh như đình đền, chùa miếu đa phần được hình thành trong dân, do dân đóng góp tiền bạc, công sức xây dựng và quản lý. Một số công trình được “ông hoàng, bà chúa” nào đó đứng hưng công (bỏ ra một số tiền lớn), sau khi xây dựng xong cũng trả lại cho dân.
Trải năm tháng thời gian, nào là chiến tranh giặc dã, nào là biến động xã hội… ho đến hôm nay chúng ta vẫn còn một hệ thống các công trình tâm linh trong các làng quê rất phong phú.
Trước khi có Cục Di sản văn hóa (Bộ VH-TT&DL), đình làng là của dân làng. Hàng năm làng bầu ra “từ đình”, từ đình làng hầu hết là đàn ông bởi lệ “trọng nam, khinh nữ”.
Quy tắc bầu “từ đình” được thống nhất: Phải là người đàng hoàng, sạch sẽ, phẩm chất đạo đức tốt, gia đình không “cắc cớ, bụi bặm”… Hàng ngày ông từ có bổn phận quét dọn, trông nom đình làng. Vào ngày “sóc, vọng”, ông từ lên hương làm lễ thần thánh. Nếu gia đình nào có lễ vật, ông từ phụ giúp để tín chủ thực hiện tâm nguyện.
Thông thường, những người được trọn vào vị trí này đều là người có “tâm”. Lấy cái “tâm” ra để hoàn thành công việc được giao! Có lẽ câu ngạn ngữ: Lừ lừ như ông từ vào đền (đình) là để chỉ những người này. Họ không quan tâm đến việc gì ngoài công việc được dân làng tín nhiệm.
Tôi lớn lên đã thấy làng làng Mông Phụ có từ đình là cụ Thiều, trước đấy là cụ Từ Quắm - bố cụ Thiều, gia đình này thâm niên làm từ đình mấy chục năm. Có những người làm lâu năm và uy tín đến mức làng gắn thêm chữ “từ” vào tên để nhớ công lao đã giúp làng như cụ Từ Nơm, cụ Từ Khả… Một thời gian dài đình làng không được chú trọng vì rất nhiều nguyên nhân…
Vậy mà cứ vào ngày tuần tiết vẫn thấy cụ Thiều buộc cái khăn bằng một giải vải đỏ che kín miệng (mín khẩu), nút buộc thắt lên đỉnh đầu. Tôi hỏi thì được biết: Buộc khăn như thế là để ông từ không nói chuyện với ai, toàn tâm toàn ý vào công việc và giữ vệ sinh!
Đình làng cũng như các công trình tâm linh khác đa phần là kiến trúc gỗ, mái dốc lợp ngói ri nên việc tu sửa thường lặt vặt. Tất tần tật những việc ấy ông từ tự động gọi thợ sửa chữa.
Người được gọi làm ai cũng vui vẻ và không ai lấy công. Xong việc đều bảo: Nhà cháu xin được cung tiến vào đình ạ! Chỉ khi sửa chữa lớn mới phải họp dân. Tiếng là họp dân song chỉ là hai giới các cụ (lão ông, lão bà) trong làng. Nếu hết nhiều tiền, con dân trong làng “bổ đầu” mà đóng góp. Nếu hết ít, làng xuất quỹ hoặc lại do một hiệp thợ nào đó công ích…
Vài năm trở lại đây các công trình tâm linh được sửa chữa, công trình nào cũng làm sai lạc đi nhiều so với nguyên bản. Nguyên nhân có nhiều song có thể chỉ ra mấy nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Hiện nay thợ có tay nghề không sẵn để tu sửa những công trình này. Chúng ta không có cái “gạch nối” giữa truyền thống và hiện đại. Lớp thợ mới chuyên vào bê tông cốt sắt, nhôm kính nhựa… Nếu phải đắp một nét hoa văn, không phải ai cũng làm được, mặc dù có người đã lăn lóc mấy chục năm với nghề xây dựng nhưng không phải “thợ ngõa”.