Nhà văn "sống đã rồi hãy viết"

Nhà văn có ý thức nghề nghiệp và khát khao sáng tạo thì lúc nào cũng muốn cầm bút viết. 

Nhưng, không phải cứ muốn là chữ nghĩa chảy tràn ra trang giấy, rất nhiều lúc lực bất tòng tâm. Lực bất tòng tâm không phải do sức khỏe yếu, mắt mờ, lưng đau gối mỏi, cảm xúc chai lỳ mà do sống nhạt, sống lớt phớt, không trải nghiệm hiện thực, không biết không hiểu về cái mình muốn viết. Chất liệu sống nghèo nàn, trí tưởng tượng viển vông thì sản phẩm văn chương chỉ là thứ nhạt nhẽo, vô vị.

1. Nhà văn nhìn thấy hiện thực đang nóng bỏng, sục sôi nhưng lại đứng ngoài cuộc, không can dự vào đời sống, cho nên chỉ thấy cái bề ngoài, cái hiện tượng nổi nênh. Muốn viết mà không viết được, trong lòng cứ nhộn nhạo với sự bất lực của sáng tạo trước cuộc sống.

Để có được tác phẩm lớn, mỗi nhà văn đều có thời gian dài trải nghiệm thực tế đời sống.
Để có được tác phẩm lớn, mỗi nhà văn đều có thời gian dài trải nghiệm thực tế đời sống.

Nhà văn Nam Cao đã từng mang tâm trạng này, trong bút ký "Đường vô nam", ông đã viết: "Cây bút của tôi bất lực… Các bạn tôi thấy cũng đều na ná như tôi. Họ thấy rằng bàn tay họ, nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về. Sống đã rồi hãy viết. Lắm lúc chúng tôi muốn vứt cả bút đi để cầm súng. Tất cả con dân nước Việt Nam lúc này chỉ muốn cầm súng đi ra trận". Đây cũng là đòi hỏi của cuộc sống, là yêu cầu của xã hội, sau đó là tâm thế nhập cuộc của nhà văn. Sống, cống hiến, hoàn thành nghĩa vụ công dân, "cầm súng đi ra trận" khi đất nước đang phen dầu sôi lửa bỏng, "sống đã rồi hãy viết". Điều này, lại một lần nữa thấy ở nhà văn Nam Cao khi sống ở chiến khu Việt Bắc hơn một năm làm những công việc "không nghệ thuật", để chuẩn bị cho "một nghệ thuật cao hơn" được ông ghi lại trong "Nhật ký ở rừng".

Tài năng văn chương là điều kiện tiên quyết làm nên nhà văn lớn. Nhà văn Tô Hoài có 8 tháng theo bộ đội đi Chiến dịch Tây Bắc, ông đi vào các khu du kích "của dân tộc Mường, Dao, Thái trắng ở Bản Thải và Ngọn Lao thuộc châu Phù Yên, rồi qua khu 99 sang Trạm Tấu, lên Tú Lệ, lên châu Than Uyên, châu Quỳnh Nhai, qua châu Tuần Giáo, vào châu Điện Biên… Rồi lại từ các khu du kích dân tộc Mèo xuống những vùng mới giải phóng, các làng dân tộc Thái trên cả bốn cánh đồng phì nhiêu của Tây Bắc thì mới viết được "Truyện Tây Bắc" với tác phẩm đặc sắc "Vợ chồng A Phủ".

Nhà văn Nguyên Hồng nếu không có những tháng năm tuổi thơ cay đắng, mười hai tuổi mồ côi cha, mẹ đi bước nữa, ông phải sống cùng bà nội và lang bạt ở bến tàu, sân ga, vườn hoa, xóm chợ nghèo… thì không thể hiểu Sở Cẩm, nhà lục xì, không thể biết được đời sống và lời ăn tiếng nói, tâm trạng, hành vi của những người dưới đáy xã xội như Tám Bính, Năm Sài Gòn, để viết "Bỉ vỏ". Nhà văn Vũ Trọng Phụng là "Vua phóng sự đất Bắc" và tiểu thuyết xã hội, nếu không bị những ngày sống đói nghèo, viết trả nợ đến phát ho phát hen, bị lao phổi, và trên giường bệnh còn ai oán với Vũ Bằng: "Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn thì đâu có phải chết non như thế này?"… thì có viết nên "Số đỏ", "Cạm bẫy người"…?

Nhà thơ người Chăm Inrasara phàn nàn rằng ông chỉ có 5 năm trọn vẹn sống với chữ nghĩa. Ba mươi tuổi đến ba lăm tuổi lao vào sinh nhai nuôi vợ con. Năm năm tiếp theo "đâm đầu vào soạn từ điển với nghiên cứu văn học Chăm". Từ bốn mươi tuổi đến bốn lăm tuổi thì lo ổn định cuộc sống gia đình. Chỉ khi bàn giao công ty cho vợ đảm nhiệm thì ông mới toàn tâm toàn chí cho sáng tác. Những tác phẩm quan trọng nhất của đời thơ như: "Lễ tẩy trần tháng Tư", "Chân dung cát" ra đời trong năm năm sung sức sáng tạo này, rồi thời gian sau đó cũng dành hết cho sáng tạo văn chương, nhưng tuổi tác, sức khỏe đã bên kia dốc cuộc đời "lực đã mòn, lửa đã nguội, và óc tưởng tượng kém bay bổng đi, 15 năm qua, tôi càng chẳng làm gì ra hồn".

Nhà thơ Inrasara có ý tiếc nuối đến độ sáng tạo văn học sung sức nhất ông không được trọn vẹn cho sáng tác, mà phải sinh nhai, phải làm các công việc khác ngoài văn chương. Inrasara nói không sai, nhưng tôi nghĩ: bên cạnh cái mất ấy lại là cái được. Cái được là sống, sống để rồi viết. Dù ông sống mang dòng máu Chăm, không gian văn hóa Chăm, mang tinh thần Chăm, dù ông có tài, nhưng chính năm năm soạn từ điển văn học Chăm đã làm cho vốn từ của ông phong phú, kho từ vựng của ông đầy thêm, nó trang bị thêm khả năng sở hữu và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Chính những năm tháng sinh nhai ở quê nhà, ở Sài Gòn làm cho tầm nhìn của ông vượt ra khỏi cái làng Chakleng của ông và chắp cánh cho thơ ông bay xa hơn.

Nhà văn Ma Văn Kháng có lần nói rằng: "Mỗi tác phẩm tôi viết ra đều ứng với một phần cuộc đời tôi". Sinh ra và lớn lên ở phố phường Hà Nội, nhưng ông có tới 25 năm sống ở miền núi Lào Cai làm giáo viên, làm thư ký cho lãnh đạo tỉnh. Sự nhiệp văn chương của ông khá đồ sộ. Cũng như Nam Cao, ông quan niệm: "Cuộc sống là người thầy lớn. Sống rồi mới viết". "Người thầy lớn" ấy chính đất và người miền núi Lào Cai đã cho ông tiểu thuyết "Đồng bạc trắng hoa xòe", "Vùng biên ải", "Mảnh trăng rừng", "Con nhà trời". Người thầy lớn ấy còn theo ông mãi đến lúc tuổi 80 mà ký ức cuộc sống miền núi hơn nửa thế kỷ trước vẫn tươi rói, tràn về để ông viết tiểu thuyết "Chim én liệng trời cao" gần 400 trang.

"Người thầy cuộc sống" là những năm tháng thời bao cấp nghèo nàn, một căn hộ 20 m2 giá 5.000 đồng, ông lĩnh nhuận bút cuốn sách được hơn 6.400 đồng, nấn ná không mua nhà đem gửi tiết kiệm. Đột nhiên ập đến kì đổi tiền, 6.000 đồng còn 600 đồng. Đau đớn mà không kêu lên được, chỉ còn để về sau viết hồi ký. "Người thầy lớn cuộc sống" là những năm tháng "ngồi trong căn buồng chật hẹp mùa hè như cái lò thiêu, viết được trang nào dúi xuống cất giấu ở dưới gầm giường cùng lũ nồi niêu xoong chảo nhọ nhem" dạy ông, cho ông chất liệu tiểu thuyết "Mùa lá rụng trong vườn".

2. "Sống đã rồi hãy viết", nhưng sống như thế nào để nhìn ra bản chất cuộc sống, con người một cách chân thật rồi viết lại là câu hỏi không dễ trả lời, không phải nhà văn nào cũng làm được.

Truyện ngắn "Đôi mắt" của Nam Cao là một ví dụ sinh động về cách sống, cách nhìn của nhà văn. Nhân vật nhà văn Hoàng tản cư về nông thôn, ở cùng làng xóm, vẫn nuôi con chó giống Đức, hút thuốc lá thơm, ăn mía tiện khúc ướp hoa bưởi, đêm đêm vợ chồng chong đèn đọc "Tam quốc diễn nghĩa" cho nhau nghe trước lúc đi ngủ và vẫn khao khát "… phải viết một cái gì để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng". Nếu nhà văn Hoàng không đi tản cư thì không thể biết người nông dân: "chỉ giết một con gà ngày mai cả làng này đã biết", nhưng đó chỉ là cái biết váng vất, nổi trên bề mặt dễ nhìn thấy. Nhà văn không dấn thân, không hòa nhập, vì vậy sống bên cạnh nông dân chỉ thấy họ "Toàn là những người đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện cả…. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả dân tân chủ".

Nhà văn "quen nhìn đời và nhìn người một phía thôi… thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn", nhưng không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù". Nam Cao tự hỏi lòng mình rằng cái anh nhà văn kia sao không đi theo bộ đội, đi nhập bọn với các đoàn văn hóa kháng chiến để thấy những sinh viên, công chức đi vệ quốc quân,… để tìm cảm hứng mới cho văn nghệ? Hỏi lòng mình, nhưng thực ra cũng đang muốn truyền thông điệp nhập cuộc với đội ngũ sáng tác đang trằn trọc "nhận đường". Thực ra, đó cũng là một thái độ sống, "sống đã" sống dấn thân với con người kháng chiến, sống với cuộc kháng chiến sẽ đắm mình vào hiện thực nóng bỏng, bộn bề chuyện lớn chuyện bé và cảm hứng sáng tác sẽ đến để viết.

Nhà văn Tô Hoài cũng ở Tây Bắc, nhưng nếu ông không cùng ăn cùng ở, cùng sống với những người dân tộc thiểu số, cùng đi lội suối bắt cá, cùng vào rừng vác củi, cùng đi đào rúi, bắt chuột, cùng ăn mèn mén, thắng cố, rêu đá, cùng đi thổi khèn, đêm đêm đi cùng trai bản Mông thổi khèn, và ngạc nhiên trước tục "cướp vợ" thì không thể hiểu văn hóa người Mông, người Thái, không thể biết tết người "Mèo",… thì làm sao có "Truyện Tây Bắc" sinh động, ngôn ngữ, nhân vật, không gian miền núi đặc sắc như thế?

Cũng "sống đã rồi hãy viết", cái dạo cả nhân loại lao đao khốn khổ vì nạn dịch COVID-19, nhiều bạn bè nhắn tin, gọi điện thúc giục nhà văn Võ Đắc Danh viết về thảm họa thế kỉ này. Ông bảo: "Trời ơi! Lo bát gạo cứu đói, cứu người đã muốn khùng rồi, đầu óc đâu mà viết? Một đấu gạo với một áng văn chương, cái nào cần thiết cho đồng loại, cái nào có giá trị trong lúc này? Trả lời tôi đi". Đó là sự lựa chọn trong tình huống cụ thể, giống như người đắm thuyền dạt vào đảo hoang không còn lương thực, thực phẩm, tình thế cấp bách sinh tồn thì người ta phải nghĩ cách để tồn tại đã, rồi sau đó làm gì mới làm. Nhưng, một khi đã vượt qua hiểm nghèo và trở về với đời sống bình thường, thì thời điểm cấp bách ấy lại là vốn sống, là chất liệu quý giá cho lao động nhà văn… sống rồi mới viết.

antgct.cand.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Vinh danh 98 cá nhân, tập thể xuất sắc tại Giải Báo chí toàn quốc 'Vì sự nghiệp phát triển Văn hóa Việt Nam' lần thứ 3

Vinh danh 98 cá nhân, tập thể xuất sắc tại Giải Báo chí toàn quốc 'Vì sự nghiệp phát triển Văn hóa Việt Nam' lần thứ 3

Tối 6/11, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức Lễ trao Giải Báo chí toàn quốc “Vì sự nghiệp phát triển Văn hóa Việt Nam” lần thứ 3. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 - Đài truyền hình Việt Nam.

Phường Nghĩa Lộ bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

Phường Nghĩa Lộ bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

Phường Nghĩa Lộ có 62% là người dân tộc thiểu số, trong đó đồng bào Thái chiếm 45%. Nơi được mệnh danh là cội nguồn của người Thái đen, từ lâu đã trở thành điểm sáng trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong hành trình đổi mới và hội nhập hôm nay, phường Nghĩa Lộ vẫn giữ được hồn cốt văn hóa đặc trưng qua từng điệu xòe, nếp nhà sàn, khung cửi, tiếng khèn, câu hát, cùng lối sống chan hòa, mến khách.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Khẩn trương khắc phục tường Hoàng thành Huế

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Khẩn trương khắc phục tường Hoàng thành Huế

Sau khi một đoạn tường phía Bắc Hoàng thành Huế sụp đổ do mưa lớn kéo dài, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu UBND thành phố Huế kiểm tra, đánh giá hiện trạng, rà soát toàn bộ hệ thống tường thành và các di tích liên quan, đồng thời triển khai biện pháp bảo đảm an toàn cho di tích và người dân.

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Nằm giữa vùng đất Cam Đường giàu truyền thống, di tích lịch sử văn hóa Đền Đôi Cô (tổ 11 Bình Minh, phường Cam Đường) từ lâu đã trở thành địa chỉ tâm linh quen thuộc của người dân địa phương và du khách thập phương.

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Không chỉ mê nhạc Âu - Mỹ, nhiều bạn trẻ Việt đang tự học đàn tranh, đàn tỳ bà qua video online và cover nhạc US-UK bằng chất liệu dân gian. Mạng xã hội trở thành “sân khấu mở”, nơi âm nhạc truyền thống được làm mới, sáng tạo nhưng cũng đặt ra câu hỏi: Làm sao giữ đúng bản sắc khi cập nhật xu hướng?

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mỗi nét chữ, mỗi trang giấy không chỉ là tri thức mà còn là hơi thở của lịch sử, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu của cộng đồng dân tộc Dao đỏ ở thôn Ù Sóc, xã Bảo Hà, tỉnh Lào Cai. 

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Trong các địa phương trên địa bàn tỉnh, người Thu Lao sinh sống chủ yếu ở khu vực thượng nguồn sông Chảy, thuộc huyện Mường Khương, Si Ma Cai cũ. Người Thu Lao có vốn dân ca phong phú thể hiện tâm tư, tình cảm, phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày. Mặc dù giới trẻ người Thu Lao ít mặn mà với dân ca, nhưng ở bản làng vùng cao vẫn còn những người ngày đêm lặng lẽ gìn giữ dòng chảy truyền thống của dân tộc.

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Bản Hồ đã đoàn kết, nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tiềm năng, thế mạnh địa phương, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân.

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Thời gian qua, xã Văn Chấn đẩy mạnh truyền dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mông, đồng thời giúp đồng bào hiểu, sử dụng và duy trì tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong đời sống hằng ngày.

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Tháng Chín âm lịch, khi những bông nếp cái mẩy sữa căng tròn là thời điểm tốt nhất để làm cốm, cũng là lúc đồng bào người Tày, người Dao ở Lâm Thượng nô nức chuẩn bị cho lễ hội “Cắc kéng” - lễ hội giã cốm nhằm tạ ơn trời đất, mừng mùa màng tươi tốt. Ngày nay, "Cắc kéng" được tổ chức thành Ngày hội văn hoá các dân tộc Lâm Thượng - cuộc triển lãm văn hoá sống động, hút khách.

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Hoàng thành Thăng Long là di tích khảo cổ học có quy mô rất rộng lớn, với nhiều tầng văn hoá phức tạp. Mỗi lớp đất, mỗi dấu tích kiến trúc, mỗi di vật khảo cổ học… chứa đựng những bí ẩn của lịch sử Hoàng cung Thăng Long - nơi hội tụ, kế thừa và phát triển của văn hóa kiến trúc cung đình phương Đông, mang đậm bản sắc Việt Nam.

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Sau 3 ngày diễn ra (từ 31/10 đến 2/11), Lễ hội Ẩm thực chay 2025 đã thu hút hơn 100 nghìn lượt khách đến tham quan, trải nghiệm và thưởng thức các hoạt động văn hóa, ẩm thực, cộng đồng. Đặc biệt, Lễ hội đã xác lập kỷ lục Việt Nam với 200 món chay từ sen.

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố được coi là “trái tim” của thiết chế văn hóa cơ sở. Đối với tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống như Lào Cai, nhà văn hóa không chỉ là nơi hội họp của thôn, mà còn là địa điểm để người dân tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Chiều muộn ở xã Bảo Ái, cô Lưu Khánh Linh vẫn ngồi giữa những chồng sách cao và tập bài viết của học sinh. Trên bàn làm việc, cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Ngọc Yến mở trang, bên cạnh là bản thảo bài phê bình văn học cô chuẩn bị gửi cho tạp chí. Hình ảnh quen thuộc ấy đã trở thành biểu tượng cho một hành trình đặc biệt: từ trường học ra diễn đàn, từ người truyền đạt tri thức đến nhà phê bình văn học. Quan trọng hơn, cô là người gieo mầm yêu văn chương cho thế hệ trẻ vùng nông thôn.

fb yt zl tw