Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: “Chìa khóa”giảm nghèo bền vững - Bài 2: Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực

Theo đánh giá của các doanh nghiệp tham gia khảo sát PCI, chỉ số đào tạo lao động của tỉnh Yên Bái đã tăng từ thứ hạng 48 năm 2010 lên thứ hạng 35 năm 2019. Yên Bái còn là một trong số ít địa phương đi đầu cả nước sớm thực hiện "đặt hàng” dạy nghề cho lao động nông thôn.
Những nỗ lực trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã đóng góp quan trọng vào việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới.
Những con số biết nói
Giai đoạn 2010 - 2020, từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động dạy nghề của các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp, hoạt động truyền nghề, tự học nghề, toàn tỉnh đã đào tạo cho 176.968 người, trong đó có 138.480 lao động nông thôn, chiếm 78,3%. 
Riêng thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956, toàn tỉnh đã mở 2.055 lớp với số lao động nông thôn được học nghề là 59.878 người (bình quân gần 5.500 người/năm). 
Số lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo nghề ở lĩnh vực nông nghiệp là 39.767 người, chiếm 66,4%, lĩnh vực phi nông nghiệp là 20.111 người, chiếm 33,6%. 
Trong tổng số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, có 977 người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, chiếm 1,6%; 32.777 người dân tộc thiểu số, chiếm 54,7%; 12.378 người thuộc hộ nghèo, chiếm 20,7%; 2.689 người thuộc hộ bị thu hồi đất canh tác (chiếm 4,5%); 154 người khuyết tật, chiếm 0,26%; 1.575 người thuộc hộ cận nghèo tham gia học nghề, chiếm 2,63%. 
Thông qua thực hiện Đề án 1956 đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu lao động, chất lượng lao động nông thôn cũng như chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. Nếu như năm 2010, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 81% thì năm 2020 ước xuống còn 59,9%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 30% thì nay tăng lên 63,2%; trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 31,5%. 
Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. 
Nếu như năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh chiếm 32,21% thì dự ước cuối năm 2020 chỉ còn 7,04%; trong đó, tỷ lệ hộ nghèo tại 2 huyện 30a (Trạm Tấu, Mù Cang Chải) giảm bình quân 8,32%/năm, cao hơn so với mức bình quân chung của cả tỉnh, đạt 7,66%/năm. 
Tỷ lệ hộ nghèo giảm đã góp phần thu hẹp khoảng cách về tình trạng nghèo giữa các khu vực và dân tộc trong toàn tỉnh. Toàn tỉnh hiện có 70 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, huyện Trấn Yên được công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới, thành phố Yên Bái được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. 
Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã góp phần cải thiện chỉ số đào tạo lao động thuộc chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). 
Theo đánh giá của các doanh nghiệp tham gia khảo sát PCI, chỉ số đào tạo lao động của tỉnh Yên Bái đã tăng từ 4,97 điểm, xếp thứ hạng 48 năm 2010 lên 6,65 điểm, xếp thứ hạng 35 năm 2019; tỷ lệ doanh nghiệp hài lòng về chất lượng lao động trên địa bàn tỉnh tăng từ 71% năm 2010 lên 91% năm 2019; qua đó, góp phần cải thiện đáng kể về thứ bậc cạnh tranh của tỉnh Yên Bái và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. 
Nỗ lực tổng lực
Để có được những kết quả quan trọng này, trước tiên phải khẳng định đã có sự tham gia tổng lực của cả hệ thống chính trị và các cấp, các ngành liên quan. Các địa phương, ngành chức năng đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Ban Chỉ đạo thực hiện Quyết định 1956 đã được thành lập từ tỉnh đến cơ sở. 
Quá trình triển khai thực hiện Đề án, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Các cấp, ngành thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện Quyết định 1956 thường xuyên có sự phối hợp chặt chẽ để triển khai các nhiệm vụ  phân công.
Theo đó, hàng năm, 100% các huyện, thị, thành phố đều tổ chức rà soát, xác định nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn; căn cứ quy hoạch phát triển ngành, nghề và nhu cầu sử dụng lao động, nhu cầu học nghề của lao động nông thôn để xây dựng kế hoạch đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm ở từng địa phương. 
Nông dân xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên áp dụng hiệu quả các kỹ thuật tiên tiến trong nghề trồng dâu nuôi tằm. 
Về phía tỉnh, ngay khi triển khai thực hiện Đề án 1956, đã xây dựng được cơ chế, chính sách phù hợp. Tỉnh đã ưu tiên bố trí nguồn ngân sách địa phương, cùng với sự đầu tư của Trung ương để triển khai các hoạt động của Đề án như: tuyên truyền dạy nghề, xây dựng các mô hình thí điểm dạy nghề, hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn, đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tỉnh đã áp dụng chính sách hỗ trợ đối với người học, giáo viên, giảng viên bằng mức hỗ trợ tối đa do Trung ương quy định. 
Theo đó, người học được hỗ trợ từ 2 - 6 triệu đồng/khóa học; đồng thời, một số đối tượng người học còn được hỗ trợ thêm tiền ăn, tiền đi lại và hưởng chính sách hỗ trợ về vay vốn học nghề, vay vốn phát triển sản xuất sau khi học nghề, vay vốn giải quyết việc làm theo quy định. 
Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn đều được hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo đáp ứng yêu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn với mức hỗ trợ bình quân 4 - 5 tỷ đồng/trung tâm. 
Riêng Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên huyện Văn Yên được đầu tư trở thành trung tâm kiểu mẫu nên được hỗ trợ 25 tỷ đồng. 
Sát thực tế, phù hợp với người học
Công tác đào tạo nghề là yếu tố tiên quyết, quyết định chất lượng lao động nên thời gian qua tỉnh cũng đã đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề. Toàn tỉnh hiện có 13 cơ sở giáo dục nghề nghiệp với 4 trường cao đẳng, 3 trường trung cấp, 6 trung tâm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên cấp huyện. 
Để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng người học, hàng năm, các lớp dạy nghề cho lao động nông thôn được tổ chức rộng khắp ở 100% xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Trong quá trình tổ chức lớp học, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã có sự linh hoạt về thời gian, địa điểm đào tạo cho phù hợp với điều kiện thực tế của người học. 
"Ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn cũng có sự đa dạng, gắn với thực tiễn sản xuất nông, lâm nghiệp của người dân và định hướng phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới của địa phương, phù hợp với nhu cầu của người học, phù hợp với nhu cầu đào tạo và sử dụng lao động của doanh nghiệp” - ông Đoàn Văn Hoạt, Giám đốc Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Văn Yên khẳng định. 
Trong công tác đào tạo, cùng với sử dụng chương trình, giáo trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức biên soạn, quá trình giảng dạy, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng đã chủ động tự biên soạn chương trình, giáo trình đối với những nghề chưa có chương trình, giáo trình chung để tổ chức giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu người học, phù hợp với thực tiễn áp dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, chương trình đào tạo các nghề nông nghiệp hầu hết do đội ngũ kỹ sư thuộc ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn xây dựng; chương trình nghề phi nông nghiệp chủ yếu do các trường dạy nghề, trung tâm giáo dục nghề nghiệp trực tiếp biên soạn có tiếp thu ý kiến tham gia của doanh nghiệp; một số nghề truyền thống do nghệ nhân, thợ lành nghề biên soạn. 
Tổng số nghề đào tạo cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh hiện có 47 nghề, gồm 21 nghề nông nghiệp và 26 nghề phi nông nghiệp. 
Đi đôi với cải tiến chương trình dạy học, Yên Bái còn là một trong số ít địa phương đi đầu trong cả nước sớm thực hiện "đặt hàng” dạy nghề cho lao động nông thôn. Hoạt động này đã gắn kết các công ty, doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo nghề, thu hút người lao động tham gia học nghề, có việc làm sau khi học nghề, qua đó, chất lượng cuộc sống được nâng lên rõ rệt.
Hồng Oanh
Bài cuối: Tiếp tục nâng cao trình độ lao động

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Ngày 5: Hoàng hôn bên bờ sông Hồng

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 5: Hoàng hôn bên bờ sông Hồng

Trên hành trình ngược dòng sông mẹ, chúng tôi dành trọn 2 ngày ở Hà Nội vì mảnh đất này có quá nhiều địa điểm có thể trải nghiệm, khám phá. Sau ngày đầu tiên tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng và lang thang phố cổ, chúng tôi quyết định trải nghiệm một đêm cắm trại bên bờ sông Hồng.

Ngày 4: Bảo tàng sống về văn hóa sông Hồng

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 4: Bảo tàng sống về văn hóa sông Hồng

Với dòng chảy uốn lượn ôm trọn Thủ đô Hà Nội, sông Hồng không chỉ tạo nên bề dày văn hóa - lịch sử mà còn góp phần hình thành cảnh quan, bồi đắp phù sa màu mỡ cho đất nông nghiệp, kết nối giao thông đường thủy với các địa phương. Dòng chảy sông Hồng còn có vai trò kết nối quá khứ với hiện tại, giữa các không gian cũ - mới của đô thị và kết nối các hoạt động của người dân địa phương với trải nghiệm của khách du lịch trong và ngoài nước.

Ngày 3: Hoài niệm “nét xưa” Phố Hiến

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 3: Hoài niệm “nét xưa” Phố Hiến

Nằm ở trung tâm của đồng bằng châu thổ sông Hồng, nhắc tới Hưng Yên chắc hẳn nhiều người đều nghĩ đến câu “nhất Kinh Kỳ, nhì Phố Hiến”. Nơi đây từng là thương cảng tấp nập người mua, kẻ bán, “tiểu Tràng An”, ngày nay là vùng đất mang đặc sản đậm tình quê, là nét xưa hoài cổ bình yên và mộc mạc.

Ngày 2: Về làng Vũ Đại thăm nhà Bá Kiến

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 2: Về làng Vũ Đại thăm nhà Bá Kiến

Làng Vũ Đại nổi tiếng trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao thực tế được lấy nguyên mẫu từ làng Đại Hoàng, thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Nam Lý, tỉnh Ninh Bình). Đây cũng là địa điểm tiếp theo trong hành trình du lịch ngược sông Hồng mà chúng tôi tìm đến.

Người Tày Làng Chiềng trong nhịp sống mới

Người Tày Làng Chiềng trong nhịp sống mới

Giữa nhịp sống hiện đại, làng Chiềng vẫn giữ trong mình vẻ bình yên riêng có. Nơi đây, người Tày gắn bó, đoàn kết, bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

Ngày 1: Từ nơi sông Hồng hòa nhịp cùng biển cả

Hành trình ngược sông Hồng - khám phá vẻ đẹp bất tận Ngày 1: Từ nơi sông Hồng hòa nhịp cùng biển cả

Chìm đắm trong vẻ đẹp bất tận của dòng sông mang sắc đỏ, hành trình dài đưa chúng tôi đến cuối nguồn - nơi sông Hồng hòa nhịp cùng biển cả, rồi lại ngược dòng trở về Lào Cai - nơi đầu nguồn sông mẹ. Sông Hồng còn nhiều tên gọi khác như: Nhị Hà, Hồng Hà, sông Cái, sông Thao, mỗi vùng đất dòng sông chảy qua mang một vẻ đẹp riêng. Hành trình cả ngàn kilômét đi qua các tỉnh, dòng sông mẹ như nhạc trưởng dẫn dắt bản giao hưởng của thiên nhiên, đưa chúng tôi từ bất ngờ này đến thú vị khác.

Bài cuối: Khẩn trương tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn

Sắp xếp đội ngũ cán bộ xã, phường Bài cuối: Khẩn trương tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn

Bộ máy chính quyền cấp xã trên địa bàn tỉnh đã đi vào hoạt động ổn định, tuy nhiên, tại nhiều xã, phường vẫn thiếu cán bộ, công chức ở một số vị trí. Thực tế đặt ra nhiều khó khăn, đòi hỏi cần có giải pháp tháo gỡ để chính quyền cơ sở thực hiện hiệu quả nhiệm vụ.

Bài 2: Những khó khăn đang đặt ra

Sắp xếp đội ngũ cán bộ xã, phường: Bài 2: Những khó khăn đang đặt ra

Sau khi tỉnh Lào Cai thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bộ máy chính quyền 99 xã, phường đã nhanh chóng đi vào hoạt động ổn định. Tuy vậy, trong thực tế hoạt động, bộ máy ở một số địa phương vẫn bộc lộ hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả phục vụ người dân cũng như phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.

Giữ mạch thông tin thông suốt

Giữ mạch thông tin thông suốt

Trong thời đại bùng nổ thông tin, việc đảm bảo các nội dung chính thống, đúng định hướng đến với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số có ý nghĩa quan trọng. Nhiệm vụ này đã được đội ngũ cán bộ, viên chức thông tin, truyền thông ở cơ sở thầm lặng thực hiện thông qua việc duy trì hoạt động cụm loa truyền thanh trên địa bàn các xã.

Lào Cai: Dồn lực thực hiện chiến dịch làm sạch dữ liệu đất đai

Lào Cai: Dồn lực thực hiện chiến dịch làm sạch dữ liệu đất đai

Thực hiện Chiến dịch 90 ngày “làm giàu, làm sạch cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai”, các địa phương của tỉnh Lào Cai đang dồn toàn lực để rà soát, chuẩn hóa, đồng bộ thông tin đất đai. Với hơn 5 triệu thửa đất cần xử lý, đây được coi là cuộc “tổng kiểm kê” quy mô lớn nhất từ trước tới nay, hướng tới mục tiêu quản lý đất đai minh bạch, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp trong thời kỳ chuyển đổi số.

Dạy chữ nơi lưng chừng trời

Dạy chữ nơi lưng chừng trời

Điểm trường tiểu học, mầm non Séo Mý Tỷ ở độ cao 1.700 m, nơi lưng chừng trời, quanh năm mây phủ, điều kiện dạy học còn nhiều khó khăn. Ở mảnh đất gian khó nhưng đầy thơ mộng này, thầy Sần Quang Minh đã gắn bó 28 năm, kiên trì bám trụ bằng lòng yêu nghề, dìu dắt nhiều thế hệ học sinh.

Đoàn 125 chở bộ đội tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu

Đường Hồ Chí Minh trên biển – bản hùng ca về ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam

“Đường Hồ Chí Minh trên biển” là tuyến vận tải quân sự chiến lược do Hải quân Nhân dân Việt Nam bí mật mở trên Biển Đông, nhằm vận chuyển vũ khí, cán bộ từ miền Bắc chi viện cho miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Tuyến vận tải huyền thoại ấy - con đường của ý chí và sáng tạo Việt Nam - đã trở thành biểu tượng cho trí tuệ, lòng dũng cảm và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Không để tạo khoảng trống ở các chi bộ thôn bản

Không để tạo khoảng trống ở các chi bộ thôn bản

Sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, các chi bộ cơ quan xã cũng được thành lập. Nhiều đảng viên trước đây sinh hoạt ở thôn được rút về đã ảnh hưởng nhất định đến chất lượng sinh hoạt của các chi bộ thôn, bản.

Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên từ khi thi công đến ngày khánh thành

Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên từ khi thi công đến ngày khánh thành

Ngày 17/10/2025, tại xã Xuân Quang, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã tổ chức Lễ khánh thành Dự án đường dây 500 kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đoạn thuộc địa bàn tỉnh Lào Cai có chiều dài khoảng 140 km, đi qua 13 xã. Cùng với sự quyết tâm của chủ đầu tư và nhà thầu, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của Nhân dân trên địa bàn tỉnh đã góp phần đưa dự án hoàn thành vượt tiến độ 8 tháng so với kế hoạch.

Điểm tựa vững chắc của Nhân dân

Điểm tựa vững chắc của Nhân dân

Theo dự báo, hoàn lưu cơn bão số 11 (Matmo) sẽ gây mưa rất to trên diện rộng. Để bảo vệ tuyệt đối an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân, chính quyền xã Mậu A đã và đang khẩn trương triển khai đồng bộ các giải pháp ứng phó với tinh thần "bốn tại chỗ".

Nỗi lo bên bờ sông sạt lở

Nỗi lo bên bờ sông sạt lở

Liên tiếp các vụ sạt lở bờ sông khiến nơi ở của các hộ dân thôn 2A Phố Ràng, xã Bảo Yên bị đe dọa, trong khi chờ phương án khắc phục đảm bảo ổn định cuộc sống lâu dài cho người dân, chính quyền địa phương đã vận động người dân di chuyển người, tài sản đến nơi ở an toàn khi có mưa bão.

fb yt zl tw