Quyết liệt giải ngân vốn đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi

Ngày 3/7, Ủy ban Dân tộc chủ trì phối hợp với UBND thành phố Cần Thơ tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi từ năm 2021 - 2023 và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giai đoạn 2024 - 2025.

Quang cảnh hội nghị.

Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương, UBND các tỉnh, thành phố, sở, ngành liên quan của 13 tỉnh, thành phố khu vực Nam Bộ có đông đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Hội nghị là dịp để rà soát, đánh giá kịp thời tiến độ, kết quả thực hiện dự án, tiểu dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia tại các địa phương; chia sẻ, đề ra giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức, thực hiện; đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu của Chương trình cho giai đoạn 2021 - 2025, làm cơ sở trong việc tham mưu, điều chỉnh nội dung, nguồn lực, địa bàn và xác định giải pháp đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo hoàn thành 100% mục tiêu, chỉ tiêu của Chương trình đã được phê duyệt.

Hội nghị cũng là diễn đàn để các bộ, ngành, cơ quan Trung ương lắng nghe ý kiến trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm của các cấp chính quyền địa phương, ý kiến từ cộng đồng trong công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của Chương trình.

Quyết liệt giải ngân vốn đầu tư

Ông Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 cho biết, việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tại các địa phương mới chỉ thực hiện được hơn một năm, thời gian còn lại khoảng 2,5 năm nhưng khối lượng công việc còn lại rất lớn. Các dự án cần được triển khai đồng bộ đến tận thôn, bản, người dân, đòi hỏi có giải pháp quyết liệt, quyết tâm, công tác phối hợp phải rất chặt chẽ. Trong đó, Trung ương tập trung vào việc thể chế hóa, ban hành văn bản hướng dẫn, tăng cường kiểm tra, tháo gỡ khó khăn cho địa phương, thậm chí có cơ chế đặc thù đẩy nhanh tiến độ giải ngân.

Các địa phương thực hiện quyết liệt kết quả giải ngân mới đạt được như mong muốn. Tuy tổng số đối tượng, nguồn vốn dành cho Chương trình này ở khu vực phía Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với khu vực khác trong cả nước nhưng theo báo cáo, tỷ lệ giải ngân lại không cao, thậm chí có địa phương còn chưa giải ngân. Để Chương trình đạt được mục tiêu đề ra, Quốc hội cho phép Chính phủ rà soát điều chỉnh; đồng thời xác định những điểm yếu và đòi hỏi thực tế, thiết kế một Chương trình phù hợp hơn cho giai đoạn 2026-2030, để đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi dù ở đâu cũng được thụ hưởng chính sách phù hợp…

Nhiều chỉ tiêu hoàn thành và vượt kế hoạch

Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi khu vực phía Nam có 308 xã, chiếm 8,97% xã được phân định của cả nước tại 13 tỉnh, thành phố, gồm 246 xã khu vực I, 7 xã khu vực II, 55 xã khu vực III; 356 thôn đặc biệt khó khăn, chiếm 2,69% thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi của cả nước. Dân số của cả khu vực khoảng 17.342.195 người, trong đó có 1.724.068 người dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 9,94%. Phần đông người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng không có nhiều điều kiện thuận lợi về phát triển sản xuất nông nghiệp và đối diện nguy cơ cao của tác động biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, hạn hán. Tỷ lệ giảm nghèo dân tộc thiểu số năm 2023 ước giảm bình quân 1,89%.

Ông Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phát biểu khai mạc hội nghị.

Trong khu vực có 10 địa phương thực hiện Chương trình bằng nguồn ngân sách Trung ương và 3 địa phương (Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai và thành phố Cần Thơ) thực hiện bằng nguồn ngân sách tự cân đối. Kết quả giải ngân nguồn vốn được giao giai đoạn 2021-2023 thực hiện Chương trình đến ngày 31/5/2023 của 13 địa phương đạt 25,92%; trong đó vốn ngân sách Trung ương giải ngân đạt 22,32%; các tỉnh, thành phố sử dụng ngân sách địa phương tự cân đối giải ngân đạt 44,09%. Một số địa phương có tỷ lệ giải ngân cao so với bình quân khu vực và bình quân cả nước là Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Bình Phước, Tây Ninh.

Mặc dù Chương trình mới đưa vào tổ chức tại địa phương chỉ khoảng 1 năm nhưng một số chỉ tiêu ước đến ngày 31/12/2023 hoàn thành, vượt kế hoạch được giao như: Tỷ lệ xã, thôn có đường ô tô đến trung tâm xã được trải nhựa hoặc bê tông, cứng hóa; tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện lưới, nguồn điện khác phù hợp và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.

Một số chỉ tiêu về con người ở khu vực phía Nam đã đạt và vượt so với khu vực khác như: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề, tỷ lệ học sinh mẫu giáo 5 tuổi, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi. Việc hoàn thành sớm một số chỉ tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho người dân, đồng thời giúp địa phương dành nguồn lực cho mục tiêu khác khó khăn hơn, đòi hỏi mức độ tập trung và thời gian thực hiện dài hơn.

Tuy nhiên, tỷ lệ giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số của khu vực phía Nam lại thấp hơn các khu vực khác, chỉ đạt bình quân 1,89%. Một số địa phương đạt và vượt mục tiêu, kế hoạch được giao là Bình Phước, Tây Ninh, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau; các địa phương chưa đạt gồm Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng.

Thực trạng này xuất phát từ nguyên nhân như: Đối tượng người dân tộc thiểu số nghèo ở khu vực phía Nam (đặc biệt là Tây Nam bộ) phần lớn thuộc diện nghèo “bền vững”. Các hộ di dân ngoài kế hoạch, hộ người dân tộc thiểu số nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn còn thiếu đất ở, đất sản xuất, phương tiện sản xuất, nước sinh hoạt. Dù các chính sách hỗ trợ giải quyết vấn đề này đã được đưa vào Dự án 1, Dự án 2 của Chương trình, nhưng còn vướng mắc về quy định, cơ chế, nên địa phương gặp khó trong tổ chức triển khai, chính sách chưa được giải quyết trong khi người dân tộc thiểu số nghèo ở địa bàn này chịu tác động gia tăng của hiện tượng biến đổi khí hậu tiêu cực như hạn hán, xâm nhập mặn…

Dịp này, Ban Tổ chức tổ chức Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm, định hướng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030, nhằm thảo luận việc lồng ghép mục tiêu của Chương trình giai đoạn 2021 - 2030 cũng như nội dung, cơ chế triển khai Chương trình giai đoạn 2026 - 2030.

Theo Báo Tin tức

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Vượt qua thời điểm bị bệnh vàng lá, thối rễ từng khiến cả nghìn ha cam của huyện Văn Chấn (cũ) bị xóa sổ, xã Chấn Thịnh hôm nay, sau hợp nhất 3 xã: Đại Lịch, Chấn Thịnh, Tân Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm, chuyên canh có quy mô lớn cả về số lượng và chất lượng.

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Xác định phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là một trong những chương trình trọng tâm năm 2025, Hội Nông dân tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, tạo điều cho hội viên, nhất là hội viên nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, vượt khó làm giàu.

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

fb yt zl tw