Những năm qua, sợi miến từ cây dong riềng đỏ truyền thống của Bản Xèo, tỉnh Lào Cai đã giúp đồng bào các dân tộc nơi đây có thêm thu nhập, vươn lên thoát nghèo, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
Biến cây trồng bản địa thành cây trồng chủ lực, người dân Bản Xèo và các hợp tác xã ngày càng nâng cao năng lực sản xuất, góp phần đưa sản phẩm miến dong vươn xa, trở thành niềm tự hào của nông sản Lào Cai, khẳng định vị thế trên bản đồ đặc sản Việt.

Cây bản địa xóa nghèo
Những ngày cuối tháng 10, nông dân xã Bản Xèo đang chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch củ dong riềng. Trên các nương đồi, ven các tuyến đường liên thôn, liên xã, đâu đâu cũng gặp những mảnh vườn dong riềng xanh mướt.
Những khóm dong riềng cao hơn đầu người đang trổ hoa đỏ chót như báo hiệu mùa thu hoạch bội thu. Khác với giống dong riềng cao sản, ngoài công dụng như một loại cây lương thực, cây dong riềng đỏ còn được biết đến như một dược liệu chữa bệnh hiệu quả.
Theo các vị cao niên ở Bản Xèo, từ xa xưa, củ của cây dong riềng đỏ đã được sử dụng rất nhiều trong các bài thuốc điều trị bệnh. Loại củ này có vị ngọt thanh, có tính mát, giúp giải nhiệt, an thần hiệu quả, có nhiều công dụng hữu ích trong điều trị các bệnh về gan và thận.
Nhờ lợi ích vượt trội cho sức khỏe và giữ nguyên được hương vị truyền thống tươi ngon, đặc biệt, nên những năm qua, sản phẩm miền Bản Xèo được thị trường tiêu thụ mạnh, luôn trong tình trạng cung không đủ cầu.
Nương trồng dong riềng của gia đình anh Tẩn Dùng Thiền, Trưởng thôn San Lùng cách nhà vài cây số, có nương nằm ở ngay ven đường lớn, có nương lại ở tít trên ngọn đồi.
Anh Siều cho biết bao đời nay, gia đình anh và bà con thôn bản chỉ trồng một vài khoảnh để làm miến, chế biến các món ăn trong gia đình, ít khi đem bán. Nhưng khi nắm bắt được nhu cầu của thị trường, được chính quyền khuyến khích, gia đình anh và bà con mở rộng diện tích, có thêm thu nhập bền vững từ sản phẩm truyền thống.
Anh Thiền cho biết thêm dong riềng đỏ là loại cây dễ trồng, ít sâu bệnh, chi phí chăm sóc thấp và đặc biệt phù hợp với điều kiện tự nhiên của Bản Xèo.
Với năng suất trung bình từ 25-30 tấn/ha, người trồng có thể thu về từ 62,5-75 triệu đồng/ha nhờ giá bán củ tươi dao động từ 2.500-3.000 đồng/kg.
Toàn thôn hiện có 124 hộ dân thì có đến 70 hộ tham gia trồng dong riềng với diện tích hơn 30ha. Đây là nguồn thu nhập chính để người dân vươn lên trong cuộc sống.
Gia đình anh Lý Láo Tả, ở thôn San Lùng trước kia 1ha đất chủ yếu trồng cây ngô cho thu nhập thấp, vài năm trở lại đây, nhận thấy tiềm năng và hiệu quả của cây dong riềng nên gia đình anh đã mạnh dạn chuyển đổi.
Với khí hậu thuận lợi, lại được hướng dẫn kỹ thuật nên năm nào gia đình anh cũng thu được hơn 20 tấn củ dong tươi, trừ chi phí thu về gần 50 triệu đồng.
Anh Tả cho biết ước tính, mỗi ha dong riềng cho thu nhập trung bình cao gấp 2-3 lần so với cây trồng ngô hoặc lúa nương, giúp gia đình anh bớt khó khăn.
Mới đây, gia đình anh được Nhà nước hỗ trợ 60 triệu đồng để xóa nhà tạm, cùng với số tiền tích lũy từ việc trồng cây dong riềng, ngôi nhà hằng mơ ước của gia đình anh đã trở thành hiện thực.
Xã Bản Xèo được thành lập trên cơ sở hợp nhất 3 xã Bản Xèo, Mường Vi, Pa Cheo (huyện Bát Xát cũ); hiện có 7.338 nhân khẩu, chủ yếu là đồng bào các dân tộc Dao, Mông, Giáy... trong đó có đến hơn 1.000 hộ nghèo và cận nghèo.
Năm 2025, toàn xã có gần 100ha dong riềng, sản lượng củ ước đạt hơn 2.500 tấn. Nhờ phát triển vùng nguyên liệu ổn định, nghề làm miến đã giúp hàng trăm hộ dân thoát nghèo.
Đặc biệt, không chỉ hình thành vùng nguyên liệu tập trung, điểm sáng trong phát triển miến dong ở Bát Xát chính là chuỗi sản xuất khép kín từ vùng trồng nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm.
Hình thành chuỗi giá trị khép kín
Đồng bào các dân tộc Bản Xèo không chỉ trồng dong để cung cấp nguyên liệu cho các hợp tác xã và cơ sở chế biến trong và ngoài địa phương mà còn tham gia sản xuất, tạo ra chuỗi giá trị khép kín từ vùng trồng đến chế biến - tiêu thụ.

Bà con yên tâm đầu tư phân bón, mở rộng diện tích, chăm sóc theo quy trình để nâng cao thu nhập. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có 3 thế hệ làm miến truyền thống, ở nơi những cánh đồng dong riềng đỏ rộng mênh mông, chị Cồ Thị Hiền, Giám đốc Hợp tác xã miến dong Hưng Hiền, luôn cố gắng để nghề của gia đình không bị mai một bằng cách giữ hương vị tự nhiên nhất của dong riềng đỏ trong mỗi sản phẩm.
Hợp tác xã sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương và tận dụng triệt để ưu điểm của quy trình sản xuất thủ công truyền thống để làm miến. Dong riềng đỏ được thu gom và sơ chế thật tỷ mỷ, kỹ lưỡng cho ra những mẻ tinh bột nguyên chất; sau đó được tráng thủ công, rồi đem phơi dưới ánh nắng mặt trời.
Do đó, sợi miến dong Hưng Hiền luôn giữ được độ dai giòn, vị ngọt của miến xưa. Khi nấu lên sợi miến trong, dai không bị nát dù có được nấu lại nhiều lần.
Chị cho hay hợp tác xã hiện có 10 lao động địa phương trực tiếp sản xuất tại cơ sở, cùng với hàng chục hộ dân tham gia liên kết trồng cây dong riềng. Trung bình mỗi ngày, cơ sở của chị sản xuất khoảng 2 tạ miến khô, tương đương khoảng 5,5 tấn củ tươi, với đầu ra hiện tại cung không đủ cầu, sản lượng của người dân thu hoạch đến đâu hợp tác xã thu mua hết đến đó.
Từ khi liên kết để sản xuất nguyên liệu cho miến, gia đình anh Cứ A Vảng, ở thôn Tả Lèng luôn được ứng trước củ giống dong riềng. Dự kiến cuối năm nay, gia đình anh thu hoạch khoảng 10 tấn củ.
Với giá mua dao động từ 2.500-3.000 đồng/kg thì anh Vảng có thu nhập khoảng 27 triệu đồng. Anh Cứ A Vảng cho biết: "Từ năm 2017, gia đình mình trồng dong bán cho chị Hiền. Bán được hết mà ít phải chăm sóc."
Đặc biệt, để làm mới và tăng thêm giá trị dinh dưỡng cho món miến dong truyền thống, cơ sở sản xuất của chị Hiền là một cơ sở đầu tiên sáng tạo, sử dụng củ sâm đất, một vị thuốc quý khác của vùng núi cao Lào Cai để làm nên sản phẩm miến sâm đất độc đáo.
Miến sâm được sản xuất 60% tinh bột dong giềng đỏ và 40% củ hoàng sin cô (củ sâm đất) cho ra sản phẩm miến sâm màu vàng sẫm, dai ngon, thanh mát, phù hợp cho bệnh nhân tiểu đường hay người có chế độ ăn kiêng. Hai loại củ này được canh tác hoàn toàn hữu cơ, đáp ứng nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất ở quy mô lớn, làm đa dạng các sản phẩm nông sản chủ lực địa phương.
Ngoài Hợp tác xã miến dong Hưng Hiền, tại địa phương còn có Hợp tác xã miến dong Thành Sơn và một số cơ sở tham gia chế biến miến dong riềng, phát triển thành sản phẩm OCOP (chương trình Mỗi xã một sản phẩm), góp phần giải quyết việc làm, tạo ổn định thu nhập hàng cho trăm lao động.
Bản Xèo phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5-10%. Ông Ngô Quốc Cường, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã khẳng định Bản Xèo xác định dong riềng là cây trồng chủ lực trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Mục tiêu của xã là hình thành vùng sản xuất tập trung, có liên kết bao tiêu, đưa dong riềng thành sản phẩm đặc sản gắn thương hiệu Bản Xèo.
"Trước thực trạng vùng nguyên liệu hiện tại chưa thể đáp ứng tối đa nhu cầu sản xuất và cung cấp ra thị trường, thời gian tới, địa phương sẽ mở rộng diện tích trồng dong riềng lên thêm 40 ha ở các thôn Cửa Cải, Ná Din; đồng thời bố trí cán bộ hướng dẫn nhân dân trồng và chăm sóc theo đúng kỹ thuật, góp phần tăng năng suất cũng như thu nhập từ loài cây này," ông Ngô Quốc Cường cho hay./.