Bức tranh dân số Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất

Sau 50 năm thống nhất đất nước, tỷ lệ dân số Việt Nam tăng cao đã tiến đến thời kỳ dân số già hóa, cần các chính sách dân số linh hoạt để đầu tư duy trì mức sinh thay thế, nâng cao chất lượng dân số.

Sau 50 năm đất nước thống nhất, chất lượng dân số đã được nâng cao. Ảnh minh họa
Sau 50 năm đất nước thống nhất, chất lượng dân số đã được nâng cao. Ảnh minh họa

Chính sách linh hoạt theo từng thời kỳ

Sau 50 năm đất nước thống nhất, dân số Việt Nam đã đạt những thành tựu ấn tượng: Dân số vượt mốc 100 triệu dân; đã kiểm soát được tốc độ gia tăng nhanh quy mô, cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực; nâng cao chất lượng giáo dục, cải thiện sức khỏe nguồn lao động dồi dào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế...

Việt Nam đã bước vào thời kỳ “dân số vàng” từ 2007, tạo cơ hội cho tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm trong tương lai. Đặc biệt, chỉ số phát triển con người tăng nhanh và đạt mức trung bình so với các nước trên thế giới; tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh; dịch vụ dân số và kế hoạch hoá gia đình được mở rộng, chất lượng ngày càng cao; phân bố dân cư hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh…

Để có được những thành tựu trên là sự thích ứng linh hoạt của các chính sách dân số phù hợp với từng thời kỳ. Ngay sau khi đất nước thống nhất năm 1975, quy mô số dân của nước ta xấp xỉ 48 triệu người. Theo Cục Dân số (Bộ Y tế), tổng điều tra dân số năm 1979 cho thấy mức sinh nước ta vẫn cao (trung bình 4,8 con/phụ nữ), tỷ lệ tăng dân số là 2,1%. Trong thời kỳ này, cuộc vận động sinh đẻ kế hoạch tiếp tục được đẩy mạnh và triển khai trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, phong trào vẫn chưa mạnh và ổn định; tốc độ phát triển dân số cao không cân đối với tốc độ phát triển kinh tế.

Trong giai đoạn này, công tác sinh đẻ kế hoạch được triển khai với mục tiêu xác định tại Đại hội Đảng lần thứ IV (năm 1976) là “Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ tăng dân số hàng năm, phấn đấu đến năm 1980 tỷ lệ tăng dân số là trên 2% một ít”; tại Đại hội Đảng lần thứ V (năm 1982) mục tiêu tiếp tục đặt ra là “giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả nước từ 2,4% hàng năm xuống 1,7% vào năm 1985”; mục tiêu tại Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) là giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% xuống 1,7% vào năm 1990 và tại Đại hội VII (năm 1991) “Giảm tốc độ tăng dân số là quốc sách, trở thành cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong toàn dân”…

Việc vận động sinh đẻ kế hoạch đã mở rộng đối tượng vận động ra toàn bộ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và cả nam giới có vợ trong tuổi sinh đẻ trên toàn quốc; cả khu vực thành thị, nông thôn và đồng bằng đông dân; nhấn mạnh đối với các đối tượng công nhân viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang…

Nhờ vậy, trong các năm 1976-1990, dân số Việt Nam tăng trung bình mỗi năm 1,13 triệu người, lên 66 triệu người vào năm 1990; tỷ lệ tăng dân số tiếp tục giảm từ 2,5% xuống 1,9%; tỷ lệ sinh giảm từ 33,2% (năm 1975) xuống 30,04% (năm 1992); số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 5,25 con (năm 1975) xuống còn 3,8 con (năm 1992).

Theo Cục Dân số, chương trình Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) là chương trình có ý nghĩa lớn đối với chiến lược con người và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nhưng trong giai đoạn này, tình hình kinh tế của đất nước đang ở trong tình trạng khủng hoảng kéo dài, chưa có sự đầu tư tương xứng.

Đến năm 2006, Việt Nam đã đạt được mức sinh thay thế; tốc độ tăng dân số quá nhanh đã được kiểm soát có kết quả. Đặc biệt, Việt Nam bắt đầu thời kỳ “dân số vàng” từ năm 2007 với nhiều cơ hội; các chính sách và chương trình thu hút tối đa các nguồn vốn, đầu tư có hiệu quả, tăng trưởng việc làm cao, nhanh chóng mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với thị trường lao động, tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe người lao động, chủ động tính toán để thu hẹp đầu tư, xây dựng trường lớp, đào tạo giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng...

Đặc biệt, ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 21 về công tác dân số trong tình hình mới. Việt Nam chuyển trọng tâm chính sách dân số từ tập trung vào KHHGĐ và giảm sinh sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố... Việc nâng cao chất lượng dân số, đặt trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an sinh là yêu cầu vừa cấp thiết vừa lâu dài; duy trì vững chắc mức sinh thay thế...

Theo dự báo, đến năm 2036, số người từ 65 tuổi trở lên có thể lên tới 15,4 triệu người (chiếm 14% tổng dân số); Việt Nam sẽ chính thức trở thành nước có dân số già. Sau đó, vào năm 2057, con số này tương ứng là 24,9 triệu người và chiếm 21,3% tổng dân số; Việt Nam sẽ bước qua ngưỡng dân số siêu già. Già hóa dân số được cho là cơ hội cho phát triển kinh tế xã hội với đóng góp của người cao tuổi cho xã hội, gia đình, nhưng cũng là thách thức lớn đối với phát triển kinh tế xã hội, chăm sóc sức khỏe và đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đánh giá, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong công tác dân số, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước, xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thời gian qua.

Ứng phó với già hóa dân số

Theo các chuyên gia, công tác dân số đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề dân số phát sinh trong thực tiễn đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống, xã hội và sự phát triển bền vững đất nước hiện tại và tương lai.

GS. Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội cho rằng: “Xã hội toàn người già tức là lực lượng lao động giảm, kéo theo nhiều người phải bỏ thời gian, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng người già; xã hội sẽ thiếu lao động, tăng hệ thống an sinh, thu ít, chi nhiều. Trong khi đó, hiện nay số lượng người cao tuổi tăng nhanh, tuy tuổi thọ của người dân tăng cao, nhưng chất lượng đời sống của người cao tuổi Việt Nam còn thấp; đa số sống ở nông thôn, không có thu nhập cố định. Bên cạnh đó, người già nhiều bệnh tật, trung bình mỗi người cao tuổi có 3-4 bệnh nền…”

Để kéo dài thời gian tiến đến dân số già, mức sinh giảm hiện nay cũng đang là vấn đề đáng lo ngại. Theo rà soát của Bộ Y tế, việc duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc chưa thật sự bền vững, xuất hiện xu thế mức sinh xuống thấp. Năm 2023, mức sinh của Việt Nam ước tính là 1,96 con/phụ nữ, thấp nhất trong lịch sử và dự báo tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo. Tốc độ già hóa dân số nhanh, Việt Nam sẽ sớm bước qua thời kỳ dân số vàng.

Các chuyên gia cho rằng, sự chuyển đổi từ một xã hội trẻ thành một xã hội già có nhiều tác động sâu rộng và cần sự chuẩn bị cho những thay đổi dân số này ngay từ bây giờ. Các giải pháp cần được chú ý như: Tăng năng suất lao động kết hợp với các chính sách tạo việc làm bền vững; tăng tỷ lệ tham gia lao động, đặc biệt là đối với dân số cao tuổi; hỗ trợ phụ nữ duy trì tham gia thị trường lao động; đầu tư vào y tế và giáo dục.

Đặc biệt về chính sách khuyến sinh để hạn chế việc giảm sinh, vừa qua, nhiều chính sách đã được ban hành như: Bộ Chính trị yêu cầu không kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3; miễn giảm học phí; Bộ Y tế đề xuất trao quyền cho mỗi cặp vợ chồng và cá nhân tự quyết định số con, thời gian sinh con phù hợp với điều kiện; kéo dài thời gian nghỉ thai sản lên 7 tháng đối với phụ nữ sinh con thứ hai và hỗ trợ thuê, mua nhà ở xã hội…

Theo GS. Nguyễn Đình Cử, việc không kỷ luật đảng viên sinh con thứ ba trở lên sẽ tạo ra một bước ngoặt quan trọng, góp phần làm chậm lại xu hướng suy giảm tỷ lệ sinh hiện nay. Nhà nước cần sớm điều chỉnh chính sách, hỗ trợ phụ nữ và các gia đình trẻ, nhằm khuyến khích sinh con và nuôi dạy thế hệ tương lai. Để chính sách khuyến khích sinh con thực sự hiệu quả, cần có cách tiếp cận toàn diện, kết hợp hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội và cải thiện môi trường lao động, cùng với các biện pháp bảo đảm thu nhập và quyền lợi việc làm cho phụ nữ…

Ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số (Bộ Y tế) khẳng định, để ứng phó với già hóa dân số, ngành Y tế nỗ lực giải quyết tình trạng mức sinh thấp, củng cố và hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh cho người cao tuổi. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động, đặc biệt bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đây là một trong những biện pháp "lo cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ".

Theo baotintuc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Thêm hướng điều trị cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối

Thêm hướng điều trị cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối

Nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị và cập nhật kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực thận - tiết niệu và lọc máu cho các cơ sở y tế, ngày 30/10, tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) số 2, Sở Y tế tỉnh Lào Cai phối hợp với Bệnh viện Bạch Mai tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Lọc màng bụng - Hướng tiếp cận điều trị cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối”.

Phát hiện kháng sinh mới mạnh hơn, có thể chống lại tình trạng kháng thuốc

Phát hiện kháng sinh mới mạnh hơn, có thể chống lại tình trạng kháng thuốc

Các nhà hóa học ở Australia và Anh đã phát hiện ra một loại kháng sinh mới có khả năng tiêu diệt các mầm bệnh do vi khuẩn kháng thuốc gây ra, bao gồm tụ cầu vàng kháng methicillin (MRSA) và vi khuẩn đường ruột kháng vancomycin (VRE). Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Journal of the American Chemical Society số ra gần đây.

Điểm tựa chăm sóc sức khỏe cho người dân vùng khó khăn

Điểm tựa chăm sóc sức khỏe cho người dân vùng khó khăn

Những năm qua, chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) đã trở thành một trong những trụ cột an sinh xã hội quan trọng, góp phần giúp người dân vùng cao tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ban đầu và điều trị bệnh kịp thời. Ở những xã vùng cao xa xôi, nơi điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, BHYT không chỉ là tấm thẻ chăm sóc sức khỏe mà còn là điểm tựa tinh thần, giúp người dân yên tâm lao động, sản xuất.

Bí quyết phòng tăng mỡ máu ở người cao tuổi

Bí quyết phòng tăng mỡ máu ở người cao tuổi

Tăng mỡ máu là một trong những rối loạn phổ biến nhất ở người cao tuổi, đồng thời là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến các bệnh tim mạch, đột quỵ và đái tháo đường type 2. Tuy nhiên, điều đáng mừng là chỉ cần thay đổi thói quen ăn uống, người cao tuổi hoàn toàn có thể kiểm soát được mỡ máu và ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm.

Kỳ vọng chấm dứt bệnh lao vào năm 2030

Kỳ vọng chấm dứt bệnh lao vào năm 2030

Hoạt động hợp tác quốc tế được đẩy mạnh được kỳ vọng sẽ có thêm nguồn lực để mở rộng năng lực xét nghiệm, đẩy mạnh sàng lọc trong cộng đồng, hướng tới chấm dứt bệnh lao.

Giải pháp ngăn chặn tảo hôn ở vùng cao

Giải pháp ngăn chặn tảo hôn ở vùng cao

Xác định công tác tuyên truyền, vận động là giải pháp cốt lõi trong phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, Sở Dân tộc và Tôn giáo đã phối hợp với UBND các xã, phường triển khai nhiều hoạt động truyền thông sâu rộng.

Chú trọng chăm sóc và nâng cao sức khỏe nội tiết cho người dân

Chú trọng chăm sóc và nâng cao sức khỏe nội tiết cho người dân

Những năm gần đây, tỷ lệ mắc các bệnh lý tuyến giáp đang ngày càng gia tăng. Trước thực trạng đó, Bệnh viện Nội tiết tỉnh Lào Cai đã tăng cường tầm soát bệnh lý tuyến giáp và đẩy mạnh ứng dụng các phương pháp điều trị hiện đại, nâng cao hiệu quả điều trị bệnh lý này.

Thần thánh hóa "chanh liều cao chữa bách bệnh": Lợi bất cập hại

Thần thánh hóa "chanh liều cao chữa bách bệnh": Lợi bất cập hại

Trước làn sóng nhiều người đang lên mạng chia sẻ chanh muối như là thuốc tiên có thể điều trị ung thư, HIV, cho đến “kiềm hóa cơ thể”, “thanh lọc gan thận”, “tăng năng lượng sống”…, bác sĩ Dương Minh Tuấn, Bệnh viện Bạch Mai nhấn mạnh, chanh muối là một phần của cuộc sống nhưng đừng để nó thay thế y học.

Cảnh báo rối loạn ăn uống ở tuổi học đường

Cảnh báo rối loạn ăn uống ở tuổi học đường

Trong một xã hội ngày càng đề cao vẻ đẹp hình thể, chuẩn mực ngoại hình dần trở thành thước đo giá trị của con người. Thế nhưng, đằng sau những thân hình “hoàn hảo” ấy lại là áp lực, lo âu và những tổn thương sâu sắc về sức khỏe tâm thần.

Tự hào nghề điều dưỡng

Ngày Điều dưỡng Việt Nam (26/10): Tự hào nghề điều dưỡng

Trải qua 35 năm hình thành và phát triển, đội ngũ điều dưỡng Việt Nam nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng không ngừng trưởng thành, khẳng định vị thế và vai trò quan trọng trong hệ thống y tế. Lực lượng điều dưỡng, hộ sinh và kỹ thuật viên trên toàn tỉnh đã và đang đóng góp tích cực vào công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Nhân dân.

fb yt zl tw