Bảo vệ và phát huy giá trị Di sản Văn hóa phi Vật thể

Nguyên tắc là bảo đảm các Di sản Văn hóa phi Vật thể được thực hành hướng con người, cộng đồng tới các giá trị văn hóa tốt đẹp; gìn giữ bản sắc; hướng tới sự phát triển xã hội toàn diện.

Sản phẩm của làng nghề thêu ren xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Sản phẩm của làng nghề thêu ren xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 39/2024/NĐ-CP quy định biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị Di sản Văn hóa phi Vật thể trong các Danh sách của UNESCO và Danh mục Di sản Văn hóa phi Vật thể Quốc gia.

Theo Nghị định, nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị Di sản Văn hóa phi Vật thể là bảo đảm các Di sản Văn hóa phi Vật thể được thực hành hướng con người, cộng đồng tới các giá trị văn hóa tốt đẹp; gìn giữ bản sắc; hướng tới sự phát triển xã hội toàn diện; bảo đảm an toàn cộng đồng và xã hội; bảo vệ môi trường; Bảo đảm tôn trọng sự đa dạng văn hóa, vai trò của cộng đồng chủ thể và tính đặc thù dân tộc, vùng miền.

Di sản Văn hóa phi Vật thể của các cộng đồng khác nhau đều được tôn trọng như nhau.

Nghị định có nội dung về ưu tiên bảo vệ các Di sản Văn hóa phi Vật thể có nguy cơ bị mai một, thất truyền, di sản của cộng đồng các dân tộc sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nhóm dân tộc có khó khăn, đặc thù, di sản có giá trị toàn cộng đồng, xã hội; ưu tiên quyền quyết định của cộng đồng chủ thể vì sự tồn tại, thực hành lâu dài, liên tục của di sản, phù hợp với ý nghĩa và chức năng của di sản, phù hợp với pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam và văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Kiểm kê 7 loại hình Di sản Văn hóa phi Vật thể

Nghị định nêu rõ, việc kiểm kê Di sản Văn hóa phi Vật thể được thực hiện đối với 7 loại hình di sản sau:

Tiếng nói chữ viết gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được thể hiện thông qua ngôn ngữ, ký tự để truyền đạt thông tin, trao truyền kiến thức, ký ức và các giá trị văn hóa, xã hội của cộng đồng;

Tập quán xã hội và tín ngưỡng Mo Mường của đồng bào dân tộc Mường (Nho Quan, Ninh Bình) được công nhận Di sản Văn hóa phi Vật thể Quốc gia.
Tập quán xã hội và tín ngưỡng Mo Mường của đồng bào dân tộc Mường (Nho Quan, Ninh Bình) được công nhận Di sản Văn hóa phi Vật thể Quốc gia.

Ngữ văn dân gian gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được thể hiện bằng những tác phẩm do cộng đồng sáng tạo, thực hành gồm các câu chuyện, truyền thuyết, giai thoại, sử thi, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tiếu lâm, ca dao, tục ngữ và các bài hát dân ca, hò vè, câu đố và những biểu đạt văn hóa tương đồng khác được truyền miệng qua nhiều thế hệ, phản ánh văn hóa, tập quán, tín ngưỡng và nhận thức của cộng đồng nhằm phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng;

Nghệ thuật trình diễn dân gian gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được thể hiện thông qua các hình thức diễn xướng do cộng đồng sáng tạo và thực hành gồm âm nhạc, hát, múa, trò diễn và các hình thức trình diễn khác, xuất phát từ đời sống văn hóa, tâm linh, lao động sản xuất của cộng đồng và phục vụ trực tiếp cho nhu cầu thể hiện và hưởng thụ văn hóa của cộng đồng;

Tập quán xã hội và tín ngưỡng gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được cộng đồng thực hành thông qua các hoạt động thường xuyên mang tính nghi lễ, cách thức thể hiện niềm tin hoặc mong muốn của cá nhân, cộng đồng gắn với các sự kiện quan trọng, nhận thức về thế giới, lịch sử và ký ức;

Nghề thủ công truyền thống gồm các biểu đạt văn hóa được thể hiện thông qua việc thực hành, sáng tạo của nghệ nhân, cộng đồng theo hình thức thủ công với kỹ thuật, hình thức, trang trí, nghệ thuật, nguyên vật liệu có yếu tố bản địa và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác để tạo ra các sản phẩm có tính độc bản, mang bản sắc văn hóa cộng đồng;

Lễ hội truyền thống gồm tập hợp nhiều biểu đạt văn hóa mang tính nghi lễ do cộng đồng sáng tạo, thực hành; được cộng đồng thực hành theo chu kỳ tại không gian văn hóa liên quan để thực hiện các chức năng: nhận thức về tự nhiên và xã hội, giáo dục nhân cách, điều chỉnh hành vi ứng xử, giao tiếp giữa con người với tự nhiên và với con người, giải trí cộng đồng và bảo đảm tính kế tục của lịch sử;

Tri thức dân gian gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng được hình thành từ mối quan hệ qua lại trong lịch sử giữa cộng đồng với môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội để thích ứng, tồn tại và thể hiện thông qua các kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng ứng xử linh hoạt, hài hòa với tự nhiên và xã hội.

Thời gian kiểm kê từ 3-6 năm

Thời gian kiểm kê được thực hiện như sau đối với Di sản Văn hóa phi Vật thể trong Danh sách đại diện: 6 năm một lần hoặc theo quy định khác của UNESCO;

Đối với Di sản Văn hóa phi Vật thể trong Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp: 4 năm một lần hoặc theo quy định khác của UNESCO;

Đối với Di sản Văn hóa phi Vật thể trong Danh mục của quốc gia: 3 năm một lần tính từ thời điểm được ghi danh.

Tổ chức liên hoan giới thiệu về văn hóa phi vật thể

Liên hoan Di sản Văn hóa phi Vật thể là hoạt động bảo vệ di sản được cam kết trong hồ sơ trình UNESCO, bao gồm tổ chức thực hành, trình diễn của cộng đồng chủ thể; trưng bày, triển lãm, giới thiệu, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và năng lực của cộng đồng, giáo dục, quảng bá về Di sản Văn hóa phi Vật thể.

Thẩm quyền tổ chức Liên hoan: Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định việc tổ chức Liên hoan quy mô từ 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên, quốc gia và quốc tế tại Việt Nam.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định việc tổ chức Liên hoan trên địa bàn.

Liên hoan được tổ chức theo quy mô và định kỳ như sau: Liên hoan tất cả các loại hình Di sản Văn hóa phi Vật thể do cơ quan chức năng về quản lý di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức ở quy mô quốc gia, quốc tế tại Việt Nam theo định kỳ 3 năm một lần;

Liên hoan từng loại hình Di sản Văn hóa phi Vật thể quy mô quốc gia ở trong nước do cơ quan chức năng về quản lý di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức theo định kỳ 1 năm một lần;

Liên hoan Di sản Văn hóa phi Vật thể có phạm vi 2 tỉnh, thành phố trở lên do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có di sản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét, quyết định khi có sự thống nhất của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại để tổ chức luân phiên 2 năm một lần.

Theo Vietnamplus

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Xác nhận kỷ lục Việt Nam 'Vũ điệu tango Hà Nội có số người tham gia đông nhất'

Xác nhận kỷ lục Việt Nam 'Vũ điệu tango Hà Nội có số người tham gia đông nhất'

Ngày 20/12, tại Hà Nội, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác nhận và trao Kỷ lục Việt Nam “Vũ điệu tango Hà Nội có số lượng người tham gia đông nhất” trình diễn trong tiết mục “Bản tango Hà Nội” tại chương trình chính luận nghệ thuật “Bản giao hưởng hòa bình 2025” của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội.

Bảo Thắng: Ra mắt câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian dân tộc Dao thôn Quyết Tâm

Bảo Thắng: Ra mắt câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian dân tộc Dao thôn Quyết Tâm

Tối 19/12, UBND xã Bảo Thắng công bố quyết định thành lập và ra mắt Câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian dân tộc Dao thôn Quyết Tâm, nhằm triển khai có hiệu quả Dự án 6 Chương trình mục tiêu quốc gia về “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”.

Gìn giữ nét đẹp đám cưới người Tày

Gìn giữ nét đẹp đám cưới người Tày

Đám cưới là nghi lễ thiêng liêng trong đời người. Với đồng bào Tày, đây không chỉ là sự gắn kết của hai cá nhân, hai gia đình mà còn là sự tiếp nối những giá trị văn hóa, phong tục truyền thống. Giữa nhịp sống hiện đại, người Tày ở xã Lâm Thượng, tỉnh Lào Cai vẫn gìn giữ trọn vẹn nét đẹp ấy, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc.

Đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai bền bỉ giữ nghề thủ công truyền thống

Đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai bền bỉ giữ nghề thủ công truyền thống

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, đồng bào các dân tộc tỉnh Lào Cai vẫn kiên trì gìn giữ nghề thủ công truyền thống. Không chỉ là sinh kế, những nghề như dệt lanh, thêu thổ cẩm, đan lát còn chứa đựng tri thức bản địa, bản sắc văn hóa và ký ức cộng đồng, được trao truyền qua nhiều thế hệ.

Dấu tích người Việt cổ bên suối Ngòi Nhù

Dấu tích người Việt cổ bên suối Ngòi Nhù

Lào Cai là vùng đất thượng nguồn sông Hồng, cũng là nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt. Ở các bản làng ven sông, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật cho thấy cách đây hàng chục nghìn năm, nơi đây từng là địa bàn sinh sống của người Việt cổ. Đặc biệt, tại khu vực thôn An Thắng bên dòng Ngòi Nhù, một di chỉ khảo cổ học quan trọng hiện vẫn còn lưu giữ nhiều dấu vết của người xưa.

“Giữ lửa” văn hóa Tày

“Giữ lửa” văn hóa Tày

Trong những năm gần đây, khi đô thị hóa diễn ra, bản làng của người Tày cũng bị tác động không nhỏ, nhiều nét văn hóa bị mai một, thậm chí mất dần... 

Mùa thêu thổ cẩm trên bản Hà Nhì

Mùa thêu thổ cẩm trên bản Hà Nhì

Vào mùa đông, khi việc thu hoạch lúa, ngô trên nương đã xong, phụ nữ người Hà Nhì ở các thôn, bản vùng cao khu vực huyện Bát Xát cũ bắt tay vào việc thêu thổ cẩm để chuẩn bị những bộ trang phục đẹp nhất cho dịp tết cổ truyền và lễ hội đầu năm của dân tộc.

Trang phục của người Dao Đỏ, Tả Phìn trong dòng chảy công nghiệp văn hóa

Trang phục của người Dao Đỏ, Tả Phìn trong dòng chảy công nghiệp văn hóa

Trong khuôn khổ hội thảo quốc tế “Engaging with Vietnam năm 2025”, do Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức từ ngày 12 - 16/12, Thạc sĩ Điền Thị Hoa Hồng, giảng viên Trường Đại học Mở Hà Nội, đã có nhiều chia sẻ tâm huyết xoay quanh chủ đề “Ứng dụng các yếu tố văn hóa trên trang phục người Dao Đỏ trong bối cảnh công nghiệp văn hóa tại Tả Phìn, Lào Cai”.

"Đánh thức" không gian văn hóa Tày ở Mậu A

"Đánh thức" không gian văn hóa Tày ở Mậu A

Cộng đồng người Tày ở Mậu A chiếm gần 12,8% dân số của xã. Trải qua nhiều thế hệ, đồng bào dân tộc Tày nơi đây vẫn duy trì văn hóa truyền thống giàu bản sắc. Việc xã Mậu A ra mắt Câu lạc bộ Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Tày đã khẳng định quyết tâm của chính quyền và Nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.

fb yt zl tw