Bánh chưng - chiếc bánh mang hồn Tết Việt

Bánh chưng có lịch sử lâu đời và vị trí đặc biệt trong tâm thức của người Việt. Bánh chưng không đơn thuần là một món ăn, mà là nguồn cội, là văn hóa, là sự tổng hòa của trời, đất với những tinh túy mà thiên nhiên ban tặng người Việt. Có lẽ vì thế mà người ta nhớ bánh chưng như nhớ Tết và nhớ Tết là nhớ về món bánh của Tổ tiên.

Cứ mỗi dịp Tết đến, Xuân về, các thành viên trong gia đình lại quây quần gói bánh chưng xanh.

Bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của người Việt

Theo truyền thuyết, sau khi dẹp yên giặc Ân, Vua Hùng thứ 6 muốn tìm người để truyền ngôi báu nên lệnh cho các con tìm lễ vật đặc biệt dâng lên để chọn lựa. Lang Liêu là con thứ 18, tính tình thuận hậu, chí hiếu, được một vị thần chỉ dẫn cách làm ra bánh chưng, bánh dày để dâng vua. Lang Liêu dùng những nguyên liệu từ đồng ruộng và cuộc sống hằng ngày để làm nên bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất, bánh dày hình tròn tượng trưng cho trời. Nhờ đó, Lang Liêu được truyền ngôi báu và lễ vật của Lang Liêu trở thành món bánh truyền thống của dân tộc, được lưu truyền đến ngày nay.

Song hành cùng lịch sử dân tộc, bánh chưng đã trở thành linh hồn của ngày Tết ở Bắc Bộ, cũng như món bánh Tét ở miền Nam. Nhìn chung, hai loại bánh này là như nhau, chỉ khác nhau về hình thức bên ngoài và một chút nguyên liệu tùy theo khẩu vị vùng miền. Trong cả ngàn năm đồng hóa, người Việt vẫn giữ trọn nếp nhà. Bánh chưng vẫn đi qua những mùa Tết để gắn bó tình cảm gia đình, làng xóm bền chặt hơn.

Đôi bàn tay khéo léo gói những chiếc bánh chưng vuông vắn, đẹp chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền.

Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm của người Việt xưa về vũ trụ và hội tụ những tinh hoa của đất Việt trong một món ăn giản dị, thân thuộc. Bánh được làm từ các nguyên liệu đơn giản như gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong... Gạo nếp chọn loại gạo ngon, to tròn, trắng phau, vo sạch để ráo nước, từng hạt chắc mẩy thơm ngát. Thịt lợn đầy đủ nạc, mỡ, bì cùng với đỗ xanh bỏ vỏ. Tất cả đều là những sản phẩm có được từ công việc trồng trọt và chăn nuôi truyền thống của dân tộc ta từ ngàn xưa. Đơn giản như thế, nhưng chiếc bánh thể hiện tính tư duy sâu sắc của người xưa, từ trong ra ngoài thể hiện triết lý: Âm dương, Tam tài và Ngũ hành.

Cắt chiếc bánh chưng, một tổng thể màu sắc hiện lên tượng trưng cho Ngũ hành trong triết lý phương Đông, tương sinh - tương khắc hài hòa, bổ trợ cho nhau trong tổng thể vuông vức: Vàng ngà hạt đỗ (Thổ), bùi bùi thoảng hương, đỏ thịt lợn chín (Hỏa), trắng màu nếp mới (Kim), xanh mát lá dong (Mộc); ngoài cùng là những chiếc lạt được nhuộm đen bởi lá dong luộc chín (Thủy). Hạt đỗ màu vàng ứng với hành Thổ trong thế đất vuông, được bao bọc nằm ở trung tâm, tượng trưng cho con người ở vị trí quan trọng nhất, là trung tâm của trời đất trong Ngũ hành.

Bên cạnh biểu tượng về Ngũ hành, hai cặp phạm trù âm dương cũng được thể hiện hòa quyện trong gói bánh, như: hạt đỗ - thịt lợn; động vật - thực vật; tĩnh - động… cùng bổ trợ cho nhau trong quá trình phát triển. Bao bọc quanh đó là màu trắng của nếp tạo thành Tam tài: Nếp - hạt đỗ - thịt lợn là âm - dương - âm, hay thực vật - động vật - thực vật… Tam tài với ba cặp phạm trù âm dương (nếp - thịt lợn, hạt đỗ - thịt lợn, nếp - hạt đỗ) hòa quyện và bổ trợ cho nhau trong tổng thể phức hợp. Và từ âm dương, Tam tài đã phát triển lên Ngũ hành.

Thành viên CLB Đình làng Việt trong trang phục áo dài truyền thống cùng gói bánh chưng Tết.

Ngay cả quá trình luộc chín bánh cũng thể hiện triết lý Ngũ hành của người xưa: Người ta dùng nước để luộc bánh (Thủy), lửa (Hỏa) được đốt từ củi (Mộc) và tất nhiên dùng nồi lớn (Kim) đặt lên ba ông đầu rau (Thổ). Năm thứ đó bổ trợ cho nhau, hài hòa bên nhau để cùng tạo nên chiếc bánh hoàn hảo cuối cùng.

Một điều cũng hết sức đặc biệt của bánh chưng là thời gian luộc bánh lên tới 10 - 12 tiếng đồng hồ, đủ lâu để tất cả nguyên liệu trong bánh hòa quyện vào nhau thành một thể thống nhất. Chưa hết. Sau rất nhiều thời gian, công sức để nấu bánh, khi lấy bánh ra còn nóng hổi, người ta phải rửa sạch nhớt và nén chặt lại trong vài tiếng để bánh được ráo nước, rền bánh và phẳng đều. Để ngay đêm giao thừa, những cặp bánh đẹp nhất, dày dặn, vuông thành sắc cạnh được dành để bày bàn thờ cúng tổ tiên, ông bà. Có chiếc bánh nhỏ gói riêng cho trẻ con như món quà đầu năm...

Trên mâm cỗ, nhìn thấy bánh chưng, mỗi người đều bồi hồi như thấy lại những vất vả của cha ông làm nên hạt lúa hạt gạo, thấy niềm hân hoan của ngày Tết sum họp, đoàn tụ và thấm thía cái tinh túy giản dị của hồn Việt mỗi độ Tết đến, xuân về.

Trông nồi bánh chưng là thú vui của trẻ nhỏ mỗi lần Tết đến.

Trường tồn mãi với thời gian

Ngày nay, ở nhiều nơi, đặc biệt là các thành phố lớn, tục nấu bánh chưng ngày Tết dường như chỉ còn là một nghi thức. Không khí ngày Tết bây giờ không còn thấy cảnh các bà, các chị tất bật những ngày giáp Tết, nào rửa lá dong, nào ngâm gạo, đãi đỗ, cảnh trẻ con mặt mũi háo hức ngồi xem bố mẹ gói bánh, cảnh già trẻ lớn bé ngồi trông nồi bánh chưng qua đêm, ngoài trời sương lạnh, buốt giá không át được không khí ấm nồng quanh bếp lửa hồng. Giờ đây, bánh chưng được bày bán quanh năm tại các siêu thị, cửa hàng, trở thành món ăn dễ có. Mỗi nhà có thể đặt làm hay mua sẵn dăm cặp bánh chưng là đã sẵn sàng cho mâm cỗ Tết.

Bánh chưng là thức ăn trang trọng, cao quý nhất để cúng tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.

Nhưng dù thời gian có biến chuyển, cuộc sống có đổi thay, thói quen sinh hoạt có khác, thì chiếc bánh chưng vẫn thế, vẫn vẹn nguyên từ dáng hình cho đến nguyên liệu. Chiếc bánh không chỉ nhắc nhớ mỗi người về một món ăn mang đậm biểu trưng văn hoá của dân tộc, mà còn khiến cho mỗi người dân đất Việt tự hào hơn, trân quý hơn một sản vật linh thiêng của ngày Tết sum họp. Không chỉ những người con sống trên đất Việt mới nhớ bánh chưng, mà những người con nơi xứ người xa xôi cũng nhớ bánh chưng da diết. Có lẽ vì thế mà người ta nhớ bánh chưng như nhớ Tết. Người ta nhớ Tết như nhớ về màu bánh Tổ tiên. Bánh chưng ấy, thứ bánh dân tộc giản dị mà yêu thương của tết Việt, nó không chỉ là món ẩm thực ngày tết mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa tâm linh, được ví như là một món quà của Tổ tiên người Việt truyền lại, trở thành linh hồn của ngày Tết Việt trường tồn mãi với thời gian.

TTXVN/Báo Tin tức

Ý kiến bạn đọc

Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Hé lộ dàn tài tử sẽ hóa thân thành 'tứ quái' The Beatles

Hé lộ dàn tài tử sẽ hóa thân thành 'tứ quái' The Beatles

Theo công bố mới nhất, bộ phim tiểu sử về các thành viên nhóm nhạc huyền thoại The Beatles sẽ xuất hiện trên màn ảnh rộng vào tháng 4/2028. Điều khiến dư luận quan tâm hiện nay là gương mặt nào sẽ đảm nhận trọng trách hóa thân thành “tứ quái” nước Anh.

Khi âm nhạc kết nối di sản

Khi âm nhạc kết nối di sản

Khi những giai điệu vang lên trong không gian của các địa danh lịch sử, chúng không chỉ mang đến giá trị giải trí mà còn làm sống lại ký ức, giúp bảo tồn và phát huy giá trị di sản theo cách sáng tạo.

Hưởng ứng Ngày sách và văn hóa đọc: Những không gian đọc sách trong thời đại số

Hưởng ứng Ngày sách và văn hóa đọc: Những không gian đọc sách trong thời đại số

Trong kỷ nguyên số với việc phát triển mạnh mẽ của các thiết bị điện tử thông minh, có rất nhiều kênh và cách để tiếp cận tri thức nhưng văn hóa đọc vẫn giữ một vị trí nhất định, là một kênh quan trọng để “công dân số” ưu tiên lựa chọn. Thế nhưng làm thế nào để lan tỏa văn hóa đọc, để người dân có được những lựa chọn thông minh, tìm về với thế giới tri thức hữu ích trên mỗi trang sách, không chỉ là trăn trở của riêng các nhà xuất bản, phát hành mà là của toàn xã hội.

Bài cuối: Gìn giữ, phát huy những mạch nguồn

Nhịp điệu Sông Hồng - vang mãi ngàn năm: Bài cuối: Gìn giữ, phát huy những mạch nguồn

Sông Hồng có tổng chiều dài 1.149 km, bắt đầu từ dãy núi Ngọa Sơn thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), sau đó chảy qua lãnh thổ Việt Nam hơn 500 km trước khi hòa vào đại dương bao la. Trên địa phận Việt Nam, dòng sông chảy qua 9 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình. Những mạch nguồn văn hóa được kết tinh, phát huy cả ngàn đời nay dọc dòng sông lớn đã tạo nên dòng chảy văn hóa, nền văn hóa sông Hồng mang những nét riêng có.

Bài 3: Lắng sâu giai điệu dân ca

Nhịp điệu Sông Hồng - vang mãi ngàn năm: Bài 3: Lắng sâu giai điệu dân ca

Cùng với tìm hiểu những di tích lịch sử văn hóa chứa đựng hoạt động tín ngưỡng tâm linh độc đáo, trong hành trình đến với vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tìm hiểu, trải nghiệm không gian diễn xướng, nghệ thuật trình diễn dân gian của những làn điệu dân ca. Mỗi lời hát, điệu múa thấm đượm tình người hồn hậu, tạo nên nét văn hóa độc đáo ở các vùng quê nơi dòng "sông Mẹ" chảy qua.

Bài 2: Linh thiêng tín ngưỡng thờ Mẫu

Nhịp điệu Sông Hồng - vang mãi ngàn năm Bài 2: Linh thiêng tín ngưỡng thờ Mẫu

Trong hành trình khám phá di sản văn hóa phi vật thể dọc sông Hồng, chúng tôi có dịp đến thăm nhiều di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia tại các tỉnh và tìm hiểu nhiều nét văn hóa đẹp của các địa phương, các dân tộc. Dọc dài đôi bờ dòng sông, tín ngưỡng thờ Mẫu sâu đậm trong đời sống văn hóa tâm linh của các cộng đồng.

Bài 1: Văn hóa tâm linh miền sông nước

Nhịp điệu Sông Hồng - vang mãi ngàn năm: Bài 1: Văn hóa tâm linh miền sông nước

Sông Hồng là dòng sông lớn nhất miền Bắc, được coi là dòng sông mẹ, bồi đắp phù sa cho các khu vườn ven sông trải dài từ nơi chảy vào đất Việt là Lào Cai đến hạ lưu là cửa biển Ba Lạt (tỉnh Thái Bình). Từ những bãi bồi phì nhiêu, cư dân khắp nơi đã cùng tụ họp về đây từ buổi dựng nước Văn Lang (theo các dấu tích khảo cổ, nhiều hiện vật được tìm thấy là minh chứng người Việt cổ đã cư trú ở đây từ thời kỳ dựng nước Văn Lang), tạo nên những ngôi làng cổ hàng nghìn năm.

Gợi mở thêm hướng đi cho nhiếp ảnh

Gợi mở thêm hướng đi cho nhiếp ảnh

Ngành nhiếp ảnh Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ cùng sự bùng nổ của công nghệ thông tin, song cũng đối mặt nhiều thách thức như định giá sản phẩm, bảo vệ bản quyền và cơ hội nghề nghiệp. Mới đây, mô hình Hợp tác xã Nhiếp ảnh và Ứng dụng đầu tiên đã hình thành tại thành phố Đà Nẵng. Nếu ý tưởng này thành công, hy vọng sẽ thúc đẩy phát triển lĩnh vực nhiếp ảnh một cách chuyên nghiệp, bền vững.

Thêm niềm vui sống từ yêu mến thơ ca

Thêm niềm vui sống từ yêu mến thơ ca

Đầu xuân, khi vùng núi cao Bắc Hà chìm trong sắc trắng mận Tam hoa, tôi tình cờ gặp bà Đặng Thị Nguyệt Ánh, 75 tuổi, ở tổ dân phố Bắc Hà 2, thị trấn Bắc Hà, huyện Bắc Hà tại Hội báo Xuân. Đối với người yêu thơ, thích đọc sách như bà Ánh thì đây chính là cơ hội để được thỏa mãn đam mê đọc và bổ sung kiến thức bổ ích từ những cuốn sách, tờ báo, tạp chí từ khắp mọi miền.

Chân dung nhà báo Ma Văn Kháng

Gặp gỡ nhà văn Ma Văn Kháng (Phần 2) Chân dung nhà báo Ma Văn Kháng

Nhà văn Ma Văn Kháng hiện đang sinh sống cùng gia đình ở Thủ đô Hà Nội. Năm nay, nhà văn bước vào tuổi 89, nhưng tinh thần và sức sáng tạo của ông thì vẫn rất mạnh mẽ. Ông vẫn là cộng tác viên thường xuyên và đều đặn của tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Văn nghệ. Đặc biệt, ông vẫn thường xuyên gửi bài viết, truyện ngắn cộng tác với "Báo nhà" - tên gọi thân thương mà nhà văn dành cho Báo Lào Cai.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

fb yt zl tw