Sự thâm thúy ẩn trong bài ca trù "Hồng Hồng Tuyết Tuyết"

Bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” về hình thức là bài thơ hát nói không chỉ có một “nghĩa đen” mà còn có “nghĩa ẩn dụ”.

Năm 2005 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, trong liên hoan ca trù toàn quốc do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức có 14 tỉnh, thành phố tham gia. Một vấn đề đặt ra về yêu cầu là các chiếu hát của những đơn vị ấy, khi trình diễn bắt buộc phải trình bày bài “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” trước khi hát những bài sở trường quen thuộc của mình. Đây là một trong những bài mẫu mực về nghệ thuật và có giá trị tư tưởng tốt.

Từ trước đến nay, khoảng trên dưới 100 năm, những nhà nghiên cứu văn học và yêu thích nghê thuật ca trù đã biết khá rõ những bài thơ nói của tiến sĩ Dương Khuê (1839-1902) trong toàn bộ di sản văn chương và thơ ca của cụ ở nửa thế kỉ XIX trong thiên niên kỉ trước, nhưng ít ai đánh giá đúng giá trị đích thực phẩm chất Dương Khuê trong mảng văn chương được thể hiện bằng loại ca trù, đặc biệt là bài “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”. Chúng ta chỉ biết cái nghĩa đen của lời ca mà không hiểu gì hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả, bối cảnh lịch sử cụ thể mà cụ Dương Khuê đã trải qua.

Sự thâm thúy ẩn trong bài ca trù "Hồng Hồng Tuyết Tuyết" ảnh 1
Cụ Dương Khuê sinh năm Kỷ Hợi (1839), quê làng Vân Đình, tổng Phương Đình, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Ứng Hòa, Hà Nội). Năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức 21 (1868) cụ thi Hội đỗ tiến sĩ, ngay sau đó được bổ nhiệm chức tri phủ Bình Giang, Hải Dương. Cụ bước váo quan trường, đến khi Tự Đức qua đời (16/6/1883) và Hòa ước mất nước ký giữa triều Nguyễn và Pháp (1883). Đó là giai đoạn 15 năm đầu trong cuộc đời làm quan của cụ có nhiều tâm trạng mà cụ đã gửi gắm trong bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”. Năm 1897, cụ cáo quan về ở ẩn, và mất năm 1902, hưởng thọ 63 tuổi. Có thể dự đoán bài ca trù ấy được viết vào năm 1883 với đầy đủ những sự kiện lịch sử và tâm trạng của tác giả .

Qua nhiều tài liệu còn lưu lại thì bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” về hình thức là bài thơ hát nói khá mẫu mực, bài có điệu Mưỡu 1 và 2 ở đầu, phần hát nói có 11 câu với 3 trổ cơ bản, ý tứ khúc chiết, rõ ràng, và không chỉ có một “nghĩa đen” mà nhà thơ còn gửi tâm trạng của mình với một “nghĩa ẩn dụ” trong đó. Đoạn mở đầu, tác giả viết:

       Ngày xưa Tuyết muốn lấy chồng

       Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì

       Bây giờ Tuyết đã đến thì

       Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già

Nghĩa “đen” thì đã quá rõ, còn nghĩa “bóng” ta có thể hiểu là: Ngày xưa tôi là người trong trắng (như Tuyết) mới thi đỗ làm quan, muốn giúp vua nhưng bị chê là không biết gì (Dương Khuê dâng sớ lên Tự Đức phải quyết liệt với người Pháp, cụ bị chê là “Bất thức thời vụ” – Không hiểu thời cuộc). Bây giờ, tôi đã hiểu biết khôn ngoan, ông muốn dùng tôi thì tôi lại thấy ông già nua, nhu nhược (đầu hàng Pháp).

Tiếp đến phần hát, tác giả viết:

        Hồng Hồng Tuyết Tuyết

        Mới ngày nào chưa biết cái chi chi 

        Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì

        Ngoảnh mặt lại đã tới kì tơ liễu

Hồng Tuyết ngoài nghĩa “đen” là tên một cô đào hát hoặc hai cô đào hát, còn chứa đựng cái nghĩa “bóng” mà tác giả gửi gắm.

Phần này theo nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, nhà thơ Trần Huyền Trân, nhà báo Tô Dũng đã có chung nhận xét là: Mới ngày nào bước vào quan trường ta như cánh chim. Hồng bay tung hoành nào có biết cái chi chi, thấm thoắt cuộc đời làm quan đã 15 năm (1868 – 1883) mới đó bây giờ nhìn lại cũng đã khôn ngoan, trưởng thành rồi.

       Cười cười nói nói sượng sùng

       Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại

Khi Tự Đức lên ngôi vua (1847) ở tuổi 19, còn ít tuổi (lúc đó Dương Khuê chỉ là đứa trẻ 8 tuổi ham chơi). Nay vua hứa “gả bán” tôi cho người Pháp thì tôi đã già (trước khi Tự Đức mất 16/6/1883, Hòa ước mới được lập xong, nó công nhận cuộc bảo hộ của Pháp ở Nam Bộ và cho đặt công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kỳ mới chính thức “gả bán”). Trước thực trạng ấy cả vua tôi đều sượng sùng, thẹn đến đỏ mặt (hồng nhan) và lo buồn đến bạc tóc (bạch phát) thật là ái ngại…

Cuối bài tác giả đã viết:

        Riêng một thú thanh sơn di lại

        Khéo ngây ngây dại dại với tình  

       Đàn ai? Một tiếng dương tranh

Chữ thanh sơn ở đây muốn chỉ triều đinh lúc bấy giờ, còn dương tranh  được hiểu là những cuộc tranh đấu đã nổi lên ở Bắc Kỳ (năm 1883 Hà Nội, Nam Định đã có các cuộc nổi dậy chống Pháp, viên đại tá Henri Riviere bị tử trận ở Cầu Giấy, Hà Nội). Chữ dương tranh, không phải là đàn tranh vì trong hát ca trù người ta đã sử dụng đáy cầm (dàn đáy). Vậy đoạn này hiểu là: Sau hòa ước bán nước 1883, vua quan nhà Nguyễn chỉ còn biết đi đi lại lại trong triều đình của mình như một thú vui ngây dại. Trong khi đó thì những cuộc nổi dậy chống Pháp ở Bắc Kỳ đã diễn ra như một tiếng cảnh tỉnh (ở đây tác giả mượn tiếng đàn).

Xem như vậy, bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” có hai nghĩa. Ngoài mối tình “trái khoáy” của một ông già với một cô đào trẻ, tác giả Dương Khuê còn gửi gắm tâm trạng của mình. Chính tâm trạng ấy cũng đủ làm nổi bật phẩm chất cao quý của một nhà nho, một viên quan đương thời trong sạch, có tấm lòng yêu nước, trăn trở với thế sự éo le lúc đó của đất nước.

Thông qua giai điệu âm nhạc, mà chủ yếu chỉ vẻn vẹn mấy nốt chính là Si, Sol, Sị, Sị sol, Si. Người nghệ nhân nhạc công đàn Đáy đã rất khéo biến hóa để tôn thêm cho lời thơ bay bổng và đi vào lòng người.

Đây cũng là một trong những bài ca trù mà trong những năm 60 của thế kỷ trước, Đài TNVN đã tổ chức nhiều buổi ca trù phục vụ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại phòng thu M ở 58 phố Quán Sứ, Hà Nội. Hình ảnh các nghệ sĩ: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Thanh Lâm, Kim Đức, Đinh Khắc Ban, Phó Đình Kỳ, Ngô Linh Ngọc… vẫn như còn trong tâm khảm chúng tôi, những người tổ chức thực hiện chương trình ấy./.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Lẽ sống của nhà văn - nhà báo Bùi Nguyên Khiết

Lẽ sống của nhà văn - nhà báo Bùi Nguyên Khiết

Tất cả những gì Khiết hái lượm được, anh chọn lọc lấy cái tinh túy nhất để lột xác, để hóa thân vào trang giáo án, vào những bài báo, vào những áng văn, dâng cho đời ngào ngạt những hoa thơm, trái ngọt. Đó chính là lẽ sống của nhà văn, nhà báo Bùi Nguyên Khiết.

Việt Nam lần thứ 3 trúng cử thành viên Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO 2005

Việt Nam lần thứ 3 trúng cử thành viên Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO 2005

Cục Hợp tác quốc tế (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) thông tin, Việt Nam đã tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai liên tiếp là thành viên của Ủy ban Liên chính phủ Công ước tại Đại hội đồng lần thứ 10 Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa. Đây là lần thứ 3 Việt Nam trúng cử vị trí này.

Chương trình nghệ thuật đặc biệt tôn vinh 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam

Chương trình nghệ thuật đặc biệt tôn vinh 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam

Tối 20/6, Chương trình nghệ thuật đặc biệt chào mừng kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam ((21/6/1925 - 21/6/2025) mang tên “Mãi mãi tấm lòng son, ngòi bút sắc” đã diễn ra tại Nhà hát Lớn (Hà Nội) mở ra không gian tri ân sâu sắc và đầy cảm xúc dành cho những người làm báo cách mạng qua các thời kỳ.

Ma Văn Kháng – Những mùa chữ ngược núi

Ma Văn Kháng - những mùa chữ ngược núi

Từng là thầy giáo, thư ký Bí thư Tỉnh ủy và phóng viên Báo Lào Cai cho đến năm 1976, ông mới chuyển về Hà Nội công tác. Được trải nghiệm trong nhiều môi trường làm việc khác nhau, mảnh đất biên viễn Lào Cai như một thứ men say để cảm xúc thăng hoa trong mỗi trang viết, làm nên tên tuổi của ông trên văn đàn. Ông chính là nhà văn - nhà báo Ma Văn Kháng.

Lời căn dặn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho người làm báo

Lời căn dặn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho người làm báo

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phát hành cuốn sách "Báo chí trước hết phải phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân" - một ấn phẩm đặc biệt tập hợp một số bài viết, bài phát biểu, lời kêu gọi, thư, điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bạn đọc, người làm báo, ban biên tập các báo, tạp chí trong nước và nước ngoài từ năm 1922 đến năm 1962.

Báo chí góp phần giữ hồn di sản

Báo chí góp phần giữ hồn di sản

Trong dòng chảy bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, báo chí không chỉ làm nhiệm vụ truyền tải thông tin mà còn là “người kể chuyện” đầy trách nhiệm, góp phần gìn giữ ký ức cộng đồng...

Tái hiện hành trình vượt vũ môn bằng hội họa

Tái hiện hành trình vượt vũ môn bằng hội họa

Chiều 18/6, tại Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám, triển lãm tranh "Sĩ tử 2" đã chính thức khai mạc. Triển lãm do Nhau Studio phối hợp Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu-Quốc Tử Giám và Hiệp hội màu nước quốc tế chi nhánh tại Việt Nam tổ chức.

"Hoa Việt nơi xứ tuyết": Tâm tình của người phụ nữ xa quê

"Hoa Việt nơi xứ tuyết": Tâm tình của người phụ nữ xa quê

Lễ trao giải Cuộc thi viết tản văn, thơ về "Người Phụ nữ Việt Nam nơi xa xứ" do Diễn đàn Phụ nữ Việt Nam tại châu Âu và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức, diễn ra tại Phòng Thượng viện, Nhà Quốc hội Hungary, ngày 15/6. Tuyển tập gồm 50 tác phẩm của các nữ tác giả người Việt ở nước ngoài chào mừng 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025).

Phát hiện khu vực cư trú ở di sản thế giới Mỹ Sơn

Phát hiện khu vực cư trú ở di sản thế giới Mỹ Sơn

Tại khu đền tháp Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) đang triển khai song song hai dự án khai quật khảo cổ, bảo tồn nhóm tháp L và nhóm E, F, với mục tiêu quan trọng là bảo tồn các yếu tố gốc của di sản, tiếp tục nhận diện giá trị còn tiềm ẩn của di sản thế giới Mỹ Sơn, từng bước góp phần hồi sinh toàn bộ diện mạo của khu đền tháp.

fb yt zl tw