Phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đến năm 2030

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm phát triển đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu gạo với quy mô, cơ cấu thị trường, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hợp lý, ổn định, bền vững và hiệu quả...

Phấn đấu đạt khoảng 25% gạo xuất khẩu trực tiếp mang nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam rice vào năm 2030.
Phấn đấu đạt khoảng 25% gạo xuất khẩu trực tiếp mang nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam rice vào năm 2030.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 583/QĐ-TTg ngày 26/5/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đến năm 2030 (Chiến lược).

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm phát triển đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu gạo với quy mô, cơ cấu thị trường, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hợp lý, ổn định, bền vững và hiệu quả; củng cố các thị trường xuất khẩu truyền thống, trọng điểm và phát triển các thị trường xuất khẩu mới, tiềm năng, các thị trường FTA; gia tăng thị phần gạo Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu, đặc biệt thị trường các nước phát triển.

Gắn thị trường xuất khẩu với sản xuất trong nước theo chuỗi giá trị, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm gạo xuất khẩu; tăng cường đưa sản phẩm gạo Việt Nam và các mặt hàng chế biến từ gạo vào các kênh phân phối trực tiếp tại các thị trường; xuất khẩu gạo và các mặt hàng chế biến từ gạo có chất lượng cao và giá trị cao, nâng cao giá trị, đảm bảo hiệu quả xuất khẩu bền vững, khẳng định uy tín và thương hiệu gạo Việt Nam.

Mục tiêu cụ thể là tăng giá trị gia tăng, nâng cao giá trị gạo xuất khẩu, giảm khối lượng xuất khẩu đến năm 2030 xuống còn khoảng 4 triệu tấn với kim ngạch tương đương khoảng 2,62 tỷ USD, giảm khối lượng nên nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2023 - 2025 giảm khoảng 2,4% và giai đoạn 2026 - 2030 giảm khoảng 3,6%.

Chuyển dịch cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu

Trong giai đoạn 2023 - 2025, tỷ trọng gạo trắng phẩm cấp thấp và trung bình chiếm không quá 15%; gạo trắng phẩm cấp cao chiếm khoảng 20%; gạo thơm, gạo japonica, gạo đặc sản chiếm khoảng 40%; gạo nếp chiếm khoảng 20%; các sản phẩm gạo có giá trị gia tăng cao như gạo dinh dưỡng, gạo đồ, gạo hữu cơ, bột gạo, sản phẩm chế biến từ gạo, cám gạo và một số phụ phẩm khác từ lúa gạo chiếm khoảng 5%. Phấn đấu tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 20%.

Trong giai đoạn 2026 - 2030, tỷ trọng gạo trắng phẩm cấp thấp và trung bình chiếm không quá 10%; gạo trắng phẩm cấp cao chiếm khoảng 15%; gạo thơm, gạo japonica, gạo đặc sản chiếm khoảng 45%; gạo nếp chiếm khoảng 20%; các sản phẩm gạo có giá trị gia tăng cao như gạo dinh dưỡng, gạo đồ, gạo hữu cơ, bột gạo, sản phẩm chế biến từ gạo, cám gạo và một số phụ phẩm khác từ lúa gạo chiếm khoảng 10%. Phấn đấu tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 40%.

Tăng tỷ lệ gạo xuất khẩu trực tiếp vào các hệ thống phân phối

Tăng tỷ lệ gạo xuất khẩu trực tiếp vào các hệ thống phân phối của các thị trường lên khoảng 60%; nâng cao hiệu quả xuất khẩu qua kênh trung gian, nhất là đối với các thị trường không thuận lợi trong vận chuyển và thanh toán.

Phấn đấu đạt khoảng 25% gạo xuất khẩu trực tiếp mang nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam rice vào năm 2030.

Cơ cấu thị trường điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu và xu thế diễn biến thị trường gạo thế giới.

Đến năm 2025, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo, thị trường châu Phi chiếm khoảng 22%, thị trường Trung Đông chiếm khoảng 4%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 3%, thị trường châu Mỹ chiếm khoảng 7%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 4%.

Đến năm 2030, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo, thị trường châu Phi chiếm khoảng 23%, thị trường Trung Đông chiếm khoảng 5%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 5%, thị trường châu Mỹ chiếm khoảng 8%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 4%.

Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng bền vững

Định hướng chung của Chiến lược là chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng bền vững, khai thác hiệu quả nhu cầu nhập khẩu gạo của các thị trường trọng điểm, truyền thống, đồng thời chú trọng phát triển các thị trường có nhu cầu nhập khẩu gạo chất lượng, giá trị cao và các sản phẩm chế biến từ thóc, gạo, các thị trường có quan hệ đối tác bền vững về thương mại và đầu tư, các thị trường FTA.

Tận dụng lợi thế cạnh tranh để củng cố vị thế và khai thác hiệu quả các thị trường gần, thị trường truyền thống, trọng điểm có nhu cầu nhập khẩu gạo phù hợp với điều kiện sản xuất hiện tại; phát triển các thị trường mới, thị trường tiềm năng, tăng tỷ trọng các thị trường nhập khẩu gạo chất lượng, giá trị gia tăng cao; tăng xuất khẩu vào các thị trường FTA có dành ưu đãi cho mặt hàng gạo; từng bước giảm tỷ trọng các thị trường nhập khẩu gạo có chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả thấp, không ổn định; tận dụng tốt các ngách thị trường phù hợp tại tất cả các khu vực thị trường.

Giữ tỷ trọng gạo trắng, hạt dài phẩm cấp cao ở mức hợp lý (khoảng từ 15 - 20%), giảm tỷ trọng gạo phẩm cấp trung bình và thấp; tăng tỷ trọng gạo thơm, gạo đồ, gạo Japonica, gạo hữu cơ; đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ lúa gạo, gạo có vi chất dinh dưỡng, bột gạo, mỹ phẩm từ gạo.

5 nhóm giải pháp để phát triển thị trường xuất khẩu gạo

Quyết định nêu rõ, trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu ngày càng tăng và thương mại gạo thế giới đối mặt với nhiều diễn biến khó đoán định như thiên tai, dịch bệnh, xung đột quân sự, chiến tranh thương mại,.... Để phát triển thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam, lấy nhu cầu thị hiếu của thị trường để định hướng cho sản xuất, xuất khẩu, các bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội và thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo cần triển khai đồng bộ 5 nhóm giải pháp cụ thể: 1- Hoàn thiện thể chế; 2- Giải pháp về nguồn cung gạo; 3- Giải pháp về phía cầu; 4- Giải pháp về hỗ trợ xuất khẩu; 5- Giải pháp về phát triển năng lực khối tư nhân.

Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Thanh toán không tiền mặt tăng trưởng ấn tượng

Thanh toán không tiền mặt tăng trưởng ấn tượng

9 tháng năm 2025, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục tăng trưởng ấn tượng. Cùng với đó, việc triển khai Đề án 06 của Chính phủ đã tạo nền tảng dữ liệu thống nhất, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số an toàn, thuận tiện, minh bạch hơn cho người dân và doanh nghiệp.

Hàng Việt khẳng định vị thế trên sân nhà, củng cố niềm tin người tiêu dùng trong nước

Hàng Việt khẳng định vị thế trên sân nhà, củng cố niềm tin người tiêu dùng trong nước

Giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, thị trường trong nước đã chứng minh vai trò “trụ đỡ” cho nền kinh tế Việt Nam. Kết quả này gắn liền với việc triển khai Đề án phát triển thị trường trong nước giai đoạn 2021 - 2025, gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

"Cầu nối" đưa sản phẩm ra thế giới

"Cầu nối" đưa sản phẩm ra thế giới

Tại chợ Sa Pa, những năm gần đây, việc áp dụng các hình thức kinh doanh online đã không còn là điều mới mẻ. Tuy nhiên, điều đặc biệt là sự xuất hiện của các tiểu thương đến từ Lào và Thái Lan, những người không chỉ nhập khẩu sản phẩm mà còn tham gia vào quá trình bán hàng online qua livestream.

Khi người Việt "chạm" vào nền kinh tế không tiền mặt

Khi người Việt "chạm" vào nền kinh tế không tiền mặt

Từ chiếc điện thoại, người Việt giờ có thể “chạm” để thanh toán mọi thứ, từ cà phê buổi sáng, vé xe buýt hay hóa đơn điện nước. Công nghệ NFC, mã QR và ví điện tử đang tái định hình hành vi chi tiêu, đưa Việt Nam tiến nhanh vào kỷ nguyên thanh toán thông minh, nơi tiện lợi và an toàn trở thành tiêu chuẩn mới của cuộc sống số.

Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam cao chưa từng có

Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam cao chưa từng có

Tháng 9, ngành rau quả Việt Nam ghi nhận một cột mốc lịch sử khi kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1,3 tỷ USD - mức cao nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu sầu riêng - loại trái cây vua đang giữ vai trò “đầu tàu”, góp phần đưa ngành rau quả tiến sát kỷ lục mới và mở ra triển vọng cán mốc 8 tỷ USD ngay trong năm nay.

fb yt zl tw