Hiểu để yêu và cùng đưa phở trở thành di sản

Hàn Quốc có kim chi; Trung Quốc nổi tiếng với bánh bao, sủi cảo; Pháp có phô mai và rượu vang. Còn Việt Nam, tất nhiên phải là phở.

Chuyên gia đề xuất sớm xúc tiến xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh ẩm thực phở Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể thế giới.

Chuyên gia đề xuất sớm xúc tiến xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh ẩm thực phở Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể thế giới.

Phong phú phở Việt

Festival Phở 2024 diễn ra tại Nam Định đã kết thúc nhưng dư vị của phở sẽ còn lan xa. Không dừng lại ở con số 50 nghìn bát phở thuộc 30 gian hàng đại diện cho phong vị của mọi miền đất nước, mà những câu chuyện từ gốc rễ lịch sử cho đến hiện đại cũng được tái hiện nhằm đưa phở trở thành di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia và thế giới.

Ngày 18/3, nghệ nhân Lê Thị Thiết - Chủ tịch Hiệp hội Văn hóa ẩm thực Nam Định cho biết sau 3 ngày tổ chức Festival Phở 2024 (từ 15 đến 17/3), có khoảng 50 nghìn bát phở đồng giá 15.000 phục vụ thực khách.

Đáng mừng nhất là có rất nhiều thực khách người nước ngoài, họ đến festival không chỉ để thưởng thức vị phở, mà còn để hiểu lịch sử về món ăn đặc trưng có thể đại diện cho ẩm thực Việt Nam.

Festival Phở 2024 không dừng lại ở quy mô của lễ hội ẩm thực, các chương trình nhằm tôn vinh, quảng bá phở còn được thực hiện đa dạng thông qua chuỗi hoạt động tham quan, tọa đàm nhằm đem đến những góc nhìn thú vị về phong vị các loại phở của Việt Nam.

Khách tham quan được chiêm ngưỡng toàn bộ quá trình làm phở từ tráng bánh, thái bánh phở, nấu nước dùng, thái thịt, ướp gia vị… lắng nghe những câu chuyện đời, chuyện nghề của các nghệ nhân phở nổi tiếng đến từ nhiều địa phương.

Đặc biệt, thực khách còn có thể trực tiếp trải nghiệm làm phở, từ khâu chọn nguyên liệu, chế nước phở cho đến chọn bánh phở để có cảm nhận về một món ngon rất giản dị nhưng cũng cực kỳ công phu. Nhiều người cũng bất ngờ không chỉ với vị phở mà còn với màu sắc của từng loại phở khác nhau.

Không đơn thuần như phở trắng nước trong, sự góp mặt của phở ngô Hà Giang, phở gấc (Cao Bằng), phở chua Lạng Sơn, phở atiso Đà Lạt (Lâm Đồng), phở sắn Quế Sơn (Quảng Nam), phở bột chuối xanh Thừa Thiên Huế, phở sâm Ngọc Linh (Kon Tum)… đã làm cho phong vị phở Việt thêm phong phú.

Phở atiso Đà Lạt chuẩn bị nguyên liệu cho 2.500 bát phở để bán trong ba ngày, nhưng nhận được sự ủng hộ lớn từ thực khách cho nên hết hàng chỉ sau hai ngày. Phở ngô Hà Giang với sợi phở làm từ bột ngô, nước dùng ninh từ rau củ quả cũng đem lại những hương vị lạ khiến nhiều người tò mò.

Mỗi bát phở, dù đại diện cho vùng miền nào, dù là phở bò, gà, trâu hay phở chay thực dưỡng cũng được chăm chút bởi đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, khiến cho hương vị và màu sắc phở trở nên hấp dẫn.

Đặc biệt với tiết trời mưa xuân, cái lạnh vẫn bao trùm cả xứ Thành Nam nên những áng khói đưa theo hương phở cứ ngạt ngào khắp các con phố ven hồ Tức Mặc, làm cho thực khách cảm thấy phở không chỉ là một món ăn, mà còn mang những phong vị văn hóa rất xưa và rất đáng được trân trọng.

Đền Vân Cù - nơi giữ tục lệ nấu phở cúng vua Hùng.

Đền Vân Cù - nơi giữ tục lệ nấu phở cúng vua Hùng.

Khó xác định “năm sinh, quê quán” của phở

Song hành cùng những bát phở ngon, du khách tham gia Festival Phở 2024 còn được tìm hiểu về cội rễ và những nghiên cứu sâu sắc về phở.

Tọa đàm “Con đường phở Việt” với sự góp mặt của những nhà sử học, nhà nghiên cứu, như: Dương Trung Quốc, Vũ Thế Long, Trịnh Quang Dũng… giúp làm rõ sự hình thành, tiếp biến và ý nghĩa văn hóa của phở.

Nhà nghiên cứu Trịnh Quang Dũng là tác giả cuốn sách “Trăm năm phở Việt” cho rằng, phở là một món ăn không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, có thể ăn sáng, trưa, chiều, tối. Không có món ăn nào lăn lộn với dân tộc Việt như phở. Và phở trở thành đại sứ văn hóa, du khách quốc tế đến Việt Nam để đi ăn phở. Phở có sức lan tỏa toàn cầu và sức mạnh của phở là văn hóa phở.

Nhà sử học Dương Trung Quốc lại chỉ ra 3 loại nguyên liệu không thể thiếu để tạo nên phở: Thịt bò, bánh phở, nước mắm. Thịt bò hiện diện tại Nam Định vào cuối thế kỷ 19 theo thói quen của người Pháp sống và làm việc tại Nam Định. Từ không gian của văn hóa lúa nước, người Việt ăn các loại chế biến từ gạo, trong đó có bánh phở. Nguyên liệu thứ 3 chính là nước mắm được ủ và lên men từ cá biển.

Học sinh tại Nam Định tham gia trải nghiệm chế biến phở tại Festival Phở 2024.

Học sinh tại Nam Định tham gia trải nghiệm chế biến phở tại Festival Phở 2024.

Ông Quốc khẳng định, các nguyên liệu này kết hợp lại trở thành một món ăn quốc hồn quốc túy, quan trọng là chúng ta dõi tìm nguồn gốc của phở trong quá khứ để đi tìm con đường phát triển phở trong tương lai.

Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Vũ Thế Long thì nguồn gốc của phở xuất hiện đầu tiên lúc nào và ở đâu vẫn là những câu hỏi chưa được trả lời. Nam Định và Hà Nội xuất hiện nghề phở sớm đã được nhà nghiên cứu Pierre Gourou nói đến trong sách do Viện Viễn Đông Bác cổ xuất bản.

Ngay tại Nam Định, loại phở được nhiều người biết đến và ưa thích là phở Cồ phát xuất từ thôn Vân Cù, xã Đồng Sơn (Nam Trực). Người dân nơi đây cho rằng, khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thì vùng đất này là nơi dự trữ quân lương, để nhớ tên nước Đại Cồ Việt, người trong làng đã lấy chữ Cồ để làm họ. Tuy vậy, không ai biết phở Cồ có từ bao giờ nhưng biết chắc người làng Vân Cù đã đi bán phở từ những năm 1900.

Trong sách “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ” của nhà nghiên cứu người Pháp là Pierre Gourou, các làng chuyên bán phở được nhắc tới là làng Di Trạch ở Hà Đông (Hà Nội) và làng Giao Cù ở Nam Trực (Nam Định).

Tuy nhiên lại không nhắc gì đến Vân Cù trong khi đây là nơi được coi là “cái nôi” của phở. Đền Vân Cù - nơi thờ vua Hùng cũng vẫn giữ tục lệ trong dịp tế lễ hàng năm vào ngày 10/3, người làng đều nấu phở để cúng tế vua Hùng.

Tuy rất khó hoặc sẽ không thể xác định “năm sinh, quê quán” của phở, nhưng sự tồn tại và ngày càng phát triển của phở đã chứng minh sức sống mãnh liệt của ẩm thực Việt, để mỗi người thêm yêu và cùng nhau đưa phở trở thành di sản.

Tại tọa đàm “Con đường phở Việt”, giới chuyên gia đề xuất Nam Định nên xây dựng một con phố mang tên phở, bởi lịch sử và sự nhiệt huyết cũng như tình yêu của người địa phương dành cho phở. Bên cạnh đó, việc dõi tìm nguồn gốc của phở cũng rất quan trọng, nhưng trước mắt cần sớm xúc tiến xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh ẩm thực phở Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể thế giới.

Báo Giáo dục & Thời đại

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Nằm giữa vùng đất Cam Đường giàu truyền thống, di tích lịch sử văn hóa Đền Đôi Cô (tổ 11 Bình Minh, phường Cam Đường) từ lâu đã trở thành địa chỉ tâm linh quen thuộc của người dân địa phương và du khách thập phương.

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Không chỉ mê nhạc Âu - Mỹ, nhiều bạn trẻ Việt đang tự học đàn tranh, đàn tỳ bà qua video online và cover nhạc US-UK bằng chất liệu dân gian. Mạng xã hội trở thành “sân khấu mở”, nơi âm nhạc truyền thống được làm mới, sáng tạo nhưng cũng đặt ra câu hỏi: Làm sao giữ đúng bản sắc khi cập nhật xu hướng?

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mỗi nét chữ, mỗi trang giấy không chỉ là tri thức mà còn là hơi thở của lịch sử, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu của cộng đồng dân tộc Dao đỏ ở thôn Ù Sóc, xã Bảo Hà, tỉnh Lào Cai. 

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Trong các địa phương trên địa bàn tỉnh, người Thu Lao sinh sống chủ yếu ở khu vực thượng nguồn sông Chảy, thuộc huyện Mường Khương, Si Ma Cai cũ. Người Thu Lao có vốn dân ca phong phú thể hiện tâm tư, tình cảm, phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày. Mặc dù giới trẻ người Thu Lao ít mặn mà với dân ca, nhưng ở bản làng vùng cao vẫn còn những người ngày đêm lặng lẽ gìn giữ dòng chảy truyền thống của dân tộc.

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Bản Hồ đã đoàn kết, nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tiềm năng, thế mạnh địa phương, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân.

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Thời gian qua, xã Văn Chấn đẩy mạnh truyền dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mông, đồng thời giúp đồng bào hiểu, sử dụng và duy trì tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong đời sống hằng ngày.

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Tháng Chín âm lịch, khi những bông nếp cái mẩy sữa căng tròn là thời điểm tốt nhất để làm cốm, cũng là lúc đồng bào người Tày, người Dao ở Lâm Thượng nô nức chuẩn bị cho lễ hội “Cắc kéng” - lễ hội giã cốm nhằm tạ ơn trời đất, mừng mùa màng tươi tốt. Ngày nay, "Cắc kéng" được tổ chức thành Ngày hội văn hoá các dân tộc Lâm Thượng - cuộc triển lãm văn hoá sống động, hút khách.

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Hoàng thành Thăng Long là di tích khảo cổ học có quy mô rất rộng lớn, với nhiều tầng văn hoá phức tạp. Mỗi lớp đất, mỗi dấu tích kiến trúc, mỗi di vật khảo cổ học… chứa đựng những bí ẩn của lịch sử Hoàng cung Thăng Long - nơi hội tụ, kế thừa và phát triển của văn hóa kiến trúc cung đình phương Đông, mang đậm bản sắc Việt Nam.

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Sau 3 ngày diễn ra (từ 31/10 đến 2/11), Lễ hội Ẩm thực chay 2025 đã thu hút hơn 100 nghìn lượt khách đến tham quan, trải nghiệm và thưởng thức các hoạt động văn hóa, ẩm thực, cộng đồng. Đặc biệt, Lễ hội đã xác lập kỷ lục Việt Nam với 200 món chay từ sen.

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố được coi là “trái tim” của thiết chế văn hóa cơ sở. Đối với tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống như Lào Cai, nhà văn hóa không chỉ là nơi hội họp của thôn, mà còn là địa điểm để người dân tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Chiều muộn ở xã Bảo Ái, cô Lưu Khánh Linh vẫn ngồi giữa những chồng sách cao và tập bài viết của học sinh. Trên bàn làm việc, cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Ngọc Yến mở trang, bên cạnh là bản thảo bài phê bình văn học cô chuẩn bị gửi cho tạp chí. Hình ảnh quen thuộc ấy đã trở thành biểu tượng cho một hành trình đặc biệt: từ trường học ra diễn đàn, từ người truyền đạt tri thức đến nhà phê bình văn học. Quan trọng hơn, cô là người gieo mầm yêu văn chương cho thế hệ trẻ vùng nông thôn.

Đánh thức ký ức của núi rừng

Đánh thức ký ức của núi rừng

Từ gỗ và thổ cẩm, ông Trần Văn Khi và con gái Trần Lan Anh đã tạo nên những tác phẩm điêu khắc mang đậm bản sắc vùng cao Sa Pa. Mỗi đường khắc, mỗi mảnh thổ cẩm không chỉ là sự sáng tạo, mà còn là cách họ kể lại câu chuyện về con người và văn hóa nơi đây.

fb yt zl tw