Xuất khẩu nông sản gặp nhiều khó khăn do biến động chi phí logistics

Với chi phí logistics tăng liên tục và không có dấu hiệu quay đầu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

Kho bãi chứa container tại cảng Tân Vũ.

Sản xuất và tiêu thụ nông sản luôn là hai khâu gắn kết chặt chẽ để nông sản Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, thực tế hiện nay logistics đang chiếm chi phí lớn trong cấu thành giá thành sản phẩm nông sản.

Điều này làm ăn mòn phần lợi nhuận nông sản mang lại cho người sản xuất và kinh doanh. Vì thế, bài toán giải quyết về chi phí logistics đang làm đau đầu nhiều doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản Việt Nam.

Chi phí logistics ăn mòn lợi nhuận

Theo thống kê từ doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu, hiện nay chi phí vận tải trên tổng chi phí logistics của Việt Nam đang ở mức rất cao, lên tới hơn 60%, cao khoảng gấp đôi so với các nước khác. Đây là con số rất lớn.

Là một doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sử dụng phương tiện đường hàng không ngay từ đầu, ông Nguyễn Đình Tùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Vina T&T cho rằng Logistics chiếm hơn 30% doanh thu của doanh nghiệp, đó là chưa kể các chi phí nhập trái cây, chiếu xạ… Vì thế, doanh nghiệp còn lời rất ít.

Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phụ thuộc hãng hàng không nước ngoài, giá cả nâng hạ tùy phía các hãng. Còn vận chuyển đường sắt, đường bộ, đường thủy… trái cây rất dễ bị hư hỏng, sức cạnh tranh đã thấp lại càng thấp hơn.

Với chi phí logistics tăng liên tục và không có dấu hiệu quay đầu đã gây khó khăn cho doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu nhiều loại nông sản ra nước ngoài và doanh nghiệp cũng đã tính kỹ bài toán giá thành mới có thể cạnh tranh giữa thị trường quốc tế khốc liệt.

Đóng thùng sầu riêng xuất khẩu đi Trung Quốc tại Vựa trái cây Hùng Loan, 94 QL20, thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú (Đồng Nai).

Tuy nhiên, dù tính tiết giảm các chi phí cũng không thể tác động chi phí vận chuyển bởi Việt Nam đang còn phụ thuộc nhiều vào các hãng tàu nước ngoài.

Bà Lê Hằng - Giám đốc truyền thông Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep), cho biết căng thẳng Biển Đỏ hiện nay lại một lần nữa bộc lộ sự thiếu hụt của ngành logistics Việt Nam, khi các hãng tàu nước ngoài chi phối, độc quyền và quyết định giá cũng như quyết định việc tăng giá cước cùng với dịch vụ vận tải khác.

Đơn cử mới đây, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam nhận được thông tin từ doanh nghiệp thủy sản cho thấy là trong vòng chưa tới 1 tháng cước vận tải biển đi các tuyến như Canada, Mỹ, châu Âu đều tăng từ 80%, thậm chí lên tới 300% so với tháng 12/2023 do câu chuyện tại vùng Biển Đỏ. Và các đường vận tải phải chuyển hướng khiến cho lộ trình dài hơn và thời gian lâu hơn, chi phí tăng lên.

Theo ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty thực phẩm Sao Ta, chi phí logistics biến động mạnh trong thời gian 4 năm trở lại đây. Nếu trước đây, cước vận tải biển đi Mỹ từ mức 3.000 USD/container trước dịch COVID-19 nay lên tới 13.000 - 14.000 USD/container đi bờ Tây, còn đi bờ Đông là 17.000 USD/container... Có thời điểm tăng gần 25.000 USD/container.

Với biến động này sẽ dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp chỉ chọn xuất khẩu thị trường gần như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản để cắt giảm chi phí này.

Là doanh nghiệp xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc lâu năm, nhưng chi phí logistics hiện nay cũng đã tác động lên lợi nhuận của doanh nghiệp, ông Nguyễn Quang Hoà, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Dương Vũ cho biết hiện tại công ty muốn xuất khẩu phải tính toán thật kĩ chi phí mà không thể cắt giảm nên vừa đảm bảo hợp đồng xuất khẩu, vừa cố gắng hòa vốn đã là may mắn cho doanh nghiệp để vượt qua biến động thị trường lúa gạo hiện nay.

Đề xuất hướng chủ động phát triển

Ngoài vấn đề vận tải, vấn đề trong chuỗi logistics như kho lạnh, kho lưu dài hạn hiện tại cũng đang là trở ngại cho các mặt hàng này.

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) chia sẻ kênh đào Panama hiện nay không phải chỉ do tác động về mặt con người, mà còn do tác động của khí hậu hiện nay đang bị khô hạn, các con tàu đi qua đây cũng phải giảm tải đã tác động đến việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu. Do đó, Việt Nam cũng đang tính toán phương án vận chuyển dự phòng tạm thời cho tuyến đường này để đưa hàng hóa đến Mỹ, châu Âu.

Các chuyên gia trong ngành logistics đánh giá, Việt Nam có tiềm lực lớn về các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời cũng có tiềm năng lớn trong phát triển logistics phục vụ vận chuyển hàng hóa xuất khẩu.

Ông Elias Abraham, Giám đốc điều hành Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Zim Intergrated Shipping (Thành phố Hồ Chí Minh) nhận định, 15 năm trước Việt Nam chưa có dịch vụ nào để đưa hàng hóa đến châu Âu và Mỹ.

Tuy nhiên hiện nay theo thống kê có hơn 200 tuyến đến các khu vực này. Đây được xem là một trong những cam kết của các hãng tàu cho thấy Việt Nam là một ngôi sao sáng trong ngành logistics và bức tranh trong ngành logistics vẫn có những mảng sáng nhiều hơn.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng Việt Nam vẫn cần phát triển đa dạng trung tâm logistics, không chỉ tập trung một khu vực, một tỉnh thành mà cần phải đa dạng hóa. Đồng thời, xu hướng áp dụng chuyển đổi công nghệ hiện đại trong logistics cần được đẩy mạnh nhanh chóng để cải thiện chi phí.

Ông Edwin Chee, Giám đốc điều hành Công ty trách nhiệm hữu hạn SLP Vietnam chia sẻ, những cơ sở của SLP đang áp dụng công nghệ tiên tiến nhất, phục vụ các nhãn hàng thời trang, cung cấp tự động hóa, robot, cung cấp chuỗi cung ứng đầy đủ. Chỉ với 3-5 người có thể vận hành cơ sở 8.000m2, cơ sở tự động hóa, máy móc hiện đại.

Trước những đánh giá của các chuyên gia ngành logistics, ông Trần Duy Đông, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics.

Nhà nước cần hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics.

VietnamPlus

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

KHỞI SẮC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

KHỞI SẮC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

Một ngày đầu thu lịch sử, trong ngôi nhà ấm cúng tại xã Yên Bình, tỉnh Lào Cai, cụ Nguyễn Huy Hảo - cán bộ tiền khởi nghĩa đã chia sẻ với chúng tôi về những dấu mốc lịch sử quan trọng trong phát triển ngành nông nghiệp của quê hương.

Lương Thịnh phát triển rừng gỗ lớn

Lương Thịnh phát triển rừng gỗ lớn

Nhận thấy việc phát triển trồng rừng gỗ lớn đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, xã Lương Thịnh đã có các giải pháp hỗ trợ người dân trồng và phát triển cây gỗ lớn. Theo đó, xã chú trọng từ việc tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân kỹ thuật trồng rừng thâm canh gỗ lớn, công tác bảo vệ phát triển rừng đến việc hỗ trợ giống cây lâm nghiệp.

fb yt zl tw