Tôi tìm đến đường Cao Thắng, phường Yên Bái, nơi cựu chiến binh Phạm Tiến đang sống cùng gia đình. Sinh năm 1945, dù đã bước sang tuổi 80, người lính năm xưa vẫn giữ được vóc dáng quắc thước, tinh thần minh mẫn; trong ánh mắt ông ánh lên những ký ức sâu lắng của một thời bom đạn.
Đón khách trong căn phòng nhỏ giản dị, ông trân trọng giới thiệu những kỷ vật mà mình gìn giữ suốt nhiều thập kỷ: bốn cuốn nhật ký và những bức ảnh đen trắng đã phai màu theo năm tháng. Đó không chỉ là vật lưu niệm, mà còn là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ, ác liệt.
Nhẹ nhàng cầm từng tấm ảnh trên tay, giọng ông chậm rãi, trầm lắng kể cho tôi nghe về những gian khổ, ác liệt của cuộc chiến năm ấy...
Tháng 02/1965, chàng thanh niên Phạm Tiến lên đường nhập ngũ, biên chế vào Trung đoàn 148, Sư đoàn 316, đóng quân tại Nà Sản (Sơn La). Trong thời gian này, ông được giao nhiệm vụ trinh sát, là lực lượng của Trung đoàn hành quân sang trước để nắm tình hình, chuẩn bị chiến trường và trực tiếp tham gia chiến dịch 20-22, mang mật danh SK. Giai đoạn 1965 - 1968, Trung đoàn 148 đã tham gia nhiều chiến dịch 20 - 22SK quan trọng trên chiến trường Xiêng Khoảng, Sầm Nưa và Nậm Bạc.
Thời đó ông là cán bộ khung của Sư đoàn 316 được tăng cường về Yên Bái để thành lập và xây dựng Tiểu đoàn Yên Ninh 2 đưa vào chi viện cho chiến trường những năm 1968. Suốt quá trình ấy ông và các đồng đội đã trải qua 5 tháng 17 ngày hành quân bộ để vào được chiến trường. Đó được coi là những tháng ngày gian khổ, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh.
Ông và các đồng đội đã hành quân xuyên qua những cánh rừng rậm rạp, vượt qua các sườn dốc dựng đứng, trong làn mưa bom bão đạn của kẻ thù. Gian khổ chất chồng gian khổ: thiếu lương thực, thiếu giấc ngủ, lại phải đối mặt với sự khắc nghiệt tột cùng của thiên nhiên. Những cơn mưa rừng dai dẳng, những cơn sốt rét ác tính luôn rình rập, có thể cướp đi sinh mạng bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh ấy, mỗi bước chân trên con đường Trường Sơn huyền thoại không chỉ là một chặng hành quân, mà là một cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt, nơi thử thách của thiên nhiên và ý chí con người còn vượt lên trên cả bom đạn chiến tranh.
Cựu chiến binh Phạm Tiến chia sẻ, cái đáng sợ nhất không phải là bom đạn mà là sự cô đơn và bệnh tật: "Nhiều anh em bị sốt rét ác tính, run bần bật, mê man ngay giữa đường hành quân. Lúc đó, cả đơn vị phải dừng lại, thay nhau cõng, tìm lá thuốc rừng để chữa trị. Chúng tôi biết, nếu để lại là đồng đội mình khó lòng qua khỏi. Trường Sơn không cho phép chúng tôi bỏ lại nhau". Kể đến đây giọng ông bỗng trùng xuống, nghẹn ngào khi nhớ về những người đồng đội đã hy sinh ngay bên cạnh mình....
Để hiểu thêm về sự khắc nghiệt của chiến trường, tôi tìm gặp cựu chiến binh Tăng Ngọc Thắng. Trong căn nhà rợp bóng cây xanh, ông tiếp chuyện tôi bằng nụ cười hiền hậu, nhưng khi nhắc đến Trường Sơn, ánh mắt ông chợt nhìn xa xăm, trầm ngâm, suy tư....
Ông kể , nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và trái tim khát vọng hòa ngày 19/5/1971, ông cùng nhiều thanh niên ưu tú của quê hương đã hăng hái lên đường nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện, ông được biên chế về C4, Tiểu đoàn 964, Trung đoàn 512, Sư đoàn 571. Trong ký ức của ông, giai đoạn từ năm 1968 đến 1972 là những năm tháng vô cùng ác liệt trên chiến trường Trường Sơn. Đối với kẻ thù, tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là mục tiêu hủy diệt trọng điểm. Đế quốc Mỹ đã huy động nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, tiến hành đánh phá liên tục nhằm cắt đứt con đường huyết mạch, ngăn chặn nguồn chi viện từ hậu phương lớn ra tiền tuyến.
Ông Thắng vẫn còn ghi nhớ sâu sắc những tháng ngày ấy. Ban ngày, bầu trời Trường Sơn hầu như không lúc nào ngớt tiếng động cơ máy bay. Từ sáng sớm là những chuyến trinh sát quần thảo, tiếp đó là máy bay phản lực và các đợt ném bom dữ dội, trong đó có cả những trận B-52 rải thảm. Khi màn đêm buông xuống, pháo sáng của địch vẫn liên tục thắp sáng bầu trời. Cứ hết đợt này chúng lại tiếp tục thả đợt khác. Dưới mặt đất, kẻ thù dùng rất nhiều phương tiện khoa học - kỹ thuật theo dõi hoạt động của quân ta. Chúng thả các cây thu phát còn gọi là cây nhiệt đới để thu những tín hiệu hoạt động của quân đội ta rồi truyền về cho phòng kỹ thuật xử lý. Đồng thời, chúng rải rất nhiều các loại bom và mìn để ngăn chặn hoạt động của quân ta. Thậm chí, chúng còn dùng cả chất độc hóa học rải thảm trên Trường Sơn để triệt phá, hủy diệt con đường.
Trong hoàn cảnh ấy, ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ còn tính bằng gang tấc. Thế nhưng, điều đó không thể làm lung lay ý chí của những người lính kiên cường, quả cảm. Họ vẫn hiên ngang tiến lên phía trước, sẵn sàng đối mặt với mọi hiểm nguy, quyết không chùn bước trước bom đạn và thử thách.
May mắn hơn những người đồng chí, đồng đội đã anh dũng ngã xuống nơi chiến trường Trường Sơn, sau ngày đất nước giải phóng, cựu chiến binh Tăng Ngọc Thắng trở về quê hương. Những ký ức hào hùng về một thời “mưa bom bão đạn”, sự hy sinh cao cả của những người đồng chí trên chiến trường xưa, đã được ông ghi chép cẩn thận trong những cuốn nhật ký, những vần thơ giàu cảm xúc… những kỷ vật thiêng liêng, luôn được ông trân trọng, nâng niu và giữ gìn.
Mỗi cái tên, mỗi địa danh được ông ghi chép trong cuốn nhật ký đều gắn liền với một câu chuyện, kỷ niệm không thể xóa nhòa. Nửa thế kỷ đã trôi qua, những cựu chiến binh Trường Sơn năm xưa người còn, người đã khuất. Có người trở về, dựng xây mái ấm gia đình hạnh phúc; có người gửi lại nơi núi rừng Trường Sơn cả tuổi thanh xuân và những ước mơ còn dang dở. Sau ngày đất nước giải phóng, ông nhiều lần trở lại tuyến đường Trường Sơn. Mỗi chuyến đi, đối với ông, như một cuộc hành hương lặng lẽ, trở về với ký ức của một thời tuổi trẻ không thể nào quên.
“Con đường bây giờ đã khang trang, đẹp đẽ, nhưng trong tim tôi, Trường Sơn vẫn là con đường đất đỏ gồ ghề, thấm đẫm mồ hôi và máu của những người đồng chí, đồng đội” - Cựu chiến binh Tăng Ngọc Thắng chia sẻ.
Dẫu thời gian không ngừng trôi, con đường Trường Sơn trong trái tim những người lính năm xưa vẫn mãi là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng - con đường đã góp phần quyết định làm nên độc lập, tự do và thống nhất cho Tổ quốc Việt Nam. Đó là bản hùng ca bất diệt về tinh thần chiến đấu quả cảm, ý chí kiên cường và sự hy sinh anh dũng của người lính. Một di sản tinh thần vô giá, đòi hỏi các thế hệ hôm nay và mai sau phải trân trọng, gìn giữ và tiếp nối. Những câu chuyện của các cựu chiến binh chính là tiếng vọng thiêng liêng, đầy tự hào và xúc động của một giai đoạn lịch sử hào hùng - một ký ức dân tộc không bao giờ được phép lãng quên.