Tăng đầu tư hạ tầng logistics, thúc đẩy lưu thông hàng hóa

Hạ tầng logistics Việt Nam ngày càng được cải thiện, góp phần nâng cao năng lực xử lý hàng hóa, thúc đẩy lưu thông hàng hóa nhanh chóng.

Trong thời gian qua, hạ tầng logistics Việt Nam ngày càng được cải thiện, với sự quan tâm đầu tư phát triển của Chính phủ và các Bộ, ngành, doanh nghiệp. Đặc biệt, các tuyến đường cao tốc, các sân bay, bến cảng và trung tâm logistics được xây dựng mới, mở rộng đã góp phần nâng cao năng lực xử lý hàng hóa, thúc đẩy lưu thông hàng hóa nhanh chóng và thuận tiện.

Hạ tầng logistics Việt Nam ngày càng được cải thiện.

Hạ tầng logistics Việt Nam ngày càng được cải thiện.

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, từ năm 2022 đến nay, hệ thống hạ tầng logistics nói chung và hạ tầng giao thông nói riêng đã được đầu tư phát triển nhanh, phát huy hiệu quả cao; nhiều công trình lớn, hiện đại đã được đưa vào khai thác.

Việc tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông có trọng tâm, trọng điểm đã góp phần tái cơ cấu hợp lý lĩnh vực vận tải, bảo đảm kết nối hài hoà các phương thức vận tải, phát huy thế mạnh của từng phương thức, làm giảm chi phí vận tải, nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ vận tải, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Theo thống kê, hiện cả nước có tổng chiều dài đường bộ khoảng 595.201 km, trong đó đường bộ quốc gia (quốc lộ, cao tốc) là 25.560 km (tăng 7,3% so với năm 2017). Song song với chất lượng hạ tầng được cải thiện, chất lượng vận tải đường bộ được nâng cao, giảm đáng kể thời gian đi lại.

Mạng lưới đường cao tốc đã đưa vào khai thác khoảng 23 đoạn tuyến, tương đương với 1.239 km; đang triển khai xây dựng khoảng 14 tuyến, đoạn tuyến, tương đương với 840 km.

Các tuyến đường cao tốc được đầu tư xây dựng trên các trục giao thông xương sống của khu vực, kết nối liên vùng có sức lan tỏa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền và cả nước tạo điều kiện cho kết nối nguồn hàng giữa các địa phương và vận tải đa phương thức phát triển.

Trong lĩnh vực đường sắt đã có nhiều nỗ lực, duy trì tình trạng kết cấu hạ tầng để nâng cao an toàn và rút ngắn thời gian chạy tàu. Mật độ đường sắt đạt khoảng 9,5 km/1.000 km2 (là mức trung bình của khối ASEAN và thế giới).

Mạng lưới đường sắt quốc gia có tổng chiều dài 3.143 km và có 277 ga, trong đó 2.703 km đường chính tuyến, 612 km đường ga và đường nhánh, bao gồm 7 tuyến chính gồm: Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh (1.726 km), Gia Lâm - Hải Phòng (102 km), Hà Nội - Đồng Đăng (167 km), Yên Viên - Lào Cai (296 km), Đông Anh - Quán Triều (55 km), Kép - Lưu Xá (56 km, không hoạt động), Kép - Hạ Long - Cái Lân (128 km) và một số tuyến nhánh, nhánh kết nối đến các đô thị, cơ sở sản xuất.

Mạng lưới đường sắt kết nối với nhau tại khu đầu mối Hà Nội, hiện đi qua địa bàn của 34 tỉnh, thành phố, gồm 4/6 vùng kinh tế của cả nước. Hiện có 2 tuyến kết nối với Trung Quốc tại Đồng Đăng (tuyến liên vận Hà Nội - Đồng Đăng) và tại Lào Cai (tuyến Hà Nội - Lào Cai).

Năng lực khai thác trên hầu hết các tuyến đường sắt chính hiện đạt khoảng 17-25 đôi tàu/ngày đêm, tốc độ khai thác tàu khách, tàu hàng trung bình 50-70 km/h. Sản lượng hành khách đường sắt tăng đột biến trong 6 tháng đầu năm 2023 và doanh thu vận tải tăng 138,92% so cùng kỳ 2022.

Đới với đường thủy nội địa, năng lực kết cấu hạ tầng đã được nâng cao nhờ việc tập trung đầu tư nâng cấp cải tạo một số tuyến tại khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời, với việc đưa vào sử dụng một số công trình chỉnh trị cửa sông, kênh, âu tàu lớn, hiện đại và một số cảng đầu mối container kết hợp cảng cạn ở phía Nam và phía Bắc.

Tổng chiều dài đường thủy nội địa toàn quốc đang quản lý khai thác 17.026 km. Trên mạng lưới đã quy hoạch 45 tuyến vận tải thủy chính: Miền Bắc có 17 tuyến, miền Trung có 10 tuyến, miền Nam có 18 tuyến. Ngoài ra, đã quy hoạch 21 tuyến vận tải sông biển (khu vực miền Bắc có 6 tuyến, miền Trung có 4 tuyến, miền Nam có 11 tuyến và một số tuyến đi chung luồng hàng hải). Toàn quốc có 292 cảng thủy nội địa: 217 cảng hàng hóa, 12 cảng hành khách, 2 cảng tổng hợp và 63 cảng chuyên dùng. Ngoài ra còn có khoảng 8.200 bến thủy nội địa và hơn 2.500 bến khách ngang sông.

Hiện, Việt Nam đang hoàn thiện Đề án “Nâng cao năng lực vận tải container trên tuyến đường thuỷ nội địa Bắc Ninh - Hải Phòng” với mục tiêu phát triển vận tải container bằng đường thuỷ nội địa theo hướng tăng thị phần vận tải thuỷ nội địa; xây dựng phương án tuyến vận tải container từ cảng biển khu vực Hải Phòng - Hà Nội, Lạch Huyện - Hà Nam, Hưng Yên.

Về hệ thống cảng biển Việt Nam, hiện có 286 bến cảng, phân bố theo 5 nhóm cảng biển, tổng chiều dài cầu cảng hơn 96 km. Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển năm 2022 đạt trên 733 triệu tấn, tăng 4% so với năm 2021.

Đặc biệt, đã hình hành các cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại phía Bắc và phía Nam; tiếp nhận thành công tàu container đến 132.000 DWT tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến 214.000 DWT tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Việt Nam đã thiết lập được 32 tuyến, trong đó 25 tuyến vận tải quốc tế và 7 tuyến vận tải nội địa, trong đó ngoài các tuyến nội Á, khu vực phía Bắc đã khai thác 2 tuyến đi Bắc Mỹ; phía Nam đã hình thành được 16 tuyến tàu xa đi Bắc Mỹ và châu Âu vượt trội hơn các nước khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Malaysia và Singapore).

Hầu hết các cảng gắn liền với các trung tâm, các vùng kinh tế lớn của cả nước, đã hình thành các cảng biển lớn với vai trò là đầu mối phục vụ xuất nhập khẩu hàng hoá và tạo động lực phát triển toàn vùng.

Trong bảng xếp hạng 100 cảng container năm 2022 có lưu lượng hàng hóa qua cảng lớn nhất thế giới theo công bố của Tạp chí Lloyd’s List (Anh), Việt Nam có 3 cảng lọt trong top này gồm: Lạch Huyện (Hải Phòng), Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh) và Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Bên cạnh đó, hiện ngành giao thông vận tải đang triển khai Đề án phát triển đội tàu vận tải biển của Việt Nam; quyết liệt thực hiện việc rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, thực hiện cơ chế một cửa quốc gia đối với 11 thủ tục hành chính lĩnh vực hàng hải tại 22 cảng vụ hàng hải.

Về đường hàng không, hiện cả nước có 22 cảng hàng không đang khai thác với tổng diện tích khoảng 11.859 ha; trong đó có 9 cảng hàng không quốc tế và 13 cảng hàng không quốc nội. Trong đó 7 cảng hàng không ở miền Bắc. 07 cảng hàng không ở miền Trung và 08 cảng hàng không ở miền Nam.

Hiện có 5 hãng hàng không Việt Nam: Vietnam Airlines (bao gồm VASCO), Vietjet Air, Pacific Airlines, Bamboo Airways và Vietravel Airlines khai thác vận chuyển hàng hoá kết hợp trên chuyến bay chuyên chở hành khách và chưa có hãng hàng không chuyên vận chuyển hàng hóa bằng tàu bay chuyên dụng. Trong khi đó, hiện có 29 hãng hàng không nước ngoài khai thác tàu bay chuyên chở hàng hóa từ 16 quốc gia, vùng lãnh thổ đến Việt Nam.

Theo đánh giá của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA), Việt Nam hiện đứng vị trí số 1 trong danh sách 25 nước có thị trường hàng không nội địa phục hồi nhanh nhất thế giới. Trong 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động vận tải hàng không cơ bản đáp ứng nhu cầu của hành khách.

Về trung tâm logistics, hiện cả nước có 69 trung tâm logistics có quy mô lớn và vừa, phân bổ tập trung ở một số khu công nghiệp. Các trung tâm logistics hạng I, hạng II, các trung tâm logistics chuyên dụng theo quy hoạch tại Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 3/7/2015 của Thủ tướng Chính phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến 2020, định hướng đến năm 2030 đang được các tỉnh, thành phố tập trung triển khai, kêu gọi đầu tư xây dựng.

Trong đó, có nhiều trung tâm logistics thế hệ mới, áp dụng công nghệ 4.0. Cùng với làn sóng gia tăng của các doanh nghiệp thương mại điện tử với nhu cầu thuê mặt bằng phục vụ lưu giữ, phân loại hàng hóa, hoàn tất đơn hàng..., nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt xu thế, xây dựng và đầu tư hệ thống kho, trung tâm logistics với chức năng cung ứng dịch vụ vận tải, hoàn tất đơn hàng, phân phối... theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại với chất lượng cao.

Cơ sở hạ tầng logistics đóng một vai trò rất quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa và tác động đến các chuỗi cung ứng hàng hóa của doanh nghiệp,thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng, các quốc gia. Vì vậy, đầu tư vào hạ tầng logistics sẽ giúp nâng cao năng lực hệ thống logistics, nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ logistics và nâng cao giá trị gia tăng. Từ đó sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Năm 2022, sản lượng vận tải hàng hóa đạt khoảng 2.009 triệu tấn, tăng 23,7% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hóa đạt khoảng 441,3 tỷ tấn/km, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung, 9 tháng năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 1.686,2 triệu tấn hàng hóa, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 359,8 tỷ tấn/km, tăng 12,5%.

congthuong.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định dịp lễ, tết

Đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định dịp lễ, tết

Trong những ngày lễ, Tết, khi nhu cầu sử dụng điện tăng mạnh trên toàn tỉnh, bảo đảm nguồn điện an toàn, ổn định được ngành Điện lực Lào Cai xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Với các giải pháp triển khai đồng bộ và chủ động ứng trực, toàn ngành đang nỗ lực giữ dòng điện thông suốt, góp phần để Nhân dân đón lễ, Tết an toàn và ấm áp.

Chi trả hơn 15,2 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng tại Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải

Chi trả hơn 15,2 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng tại Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải

Năm 2025, Ban Quản lý Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải triển khai hiệu quả chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, chuyển hơn 15,27 tỷ đồng trực tiếp đến các cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân và nâng cao trách nhiệm bảo vệ rừng đặc dụng.

Trung tâm SUDECOM: Hỗ trợ mô hình sinh kế cho 92 hộ thông qua dự án hỗ trợ mô hình sinh kế

Trung tâm SUDECOM: Hỗ trợ mô hình sinh kế cho 92 hộ thông qua dự án hỗ trợ mô hình sinh kế

Sáng 29/12, Trung tâm Hỗ trợ phát triển bền vững cộng đồng các dân tộc miền núi (SUDECOM) tổng kết Dự án “Hỗ trợ mô hình sinh kế và nâng cao năng lực tiếp cận chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng nhằm góp phần tăng thu nhập và bình đẳng giới tại 3 xã của tỉnh Lào Cai”.

Điểm sáng giảm nghèo của xã Bảo Hà

Điểm sáng giảm nghèo của xã Bảo Hà

Với sự quan tâm sâu sát của Đảng, Nhà nước, cùng sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, thôn 1 Nhai Tẻn, xã Bảo Hà đã từng bước vượt qua khó khăn, đạt nhiều kết quả tích cực trong giảm nghèo bền vững, trở thành điểm sáng trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Bảo vệ rừng để phát triển du lịch

Bảo vệ rừng để phát triển du lịch

Ở thôn Cang Dông xã Púng Luông, người dân vẫn đang lặng lẽ gìn giữ một “báu vật” của thiên nhiên. Đó là khu rừng Pơ mu với khoảng 70 gốc, trong đó có nhiều cây có tuổi đời 50 đến 70 năm tuổi. Không chỉ là tài sản quý giá về sinh thái, cánh rừng Pơ mu ấy còn đang trở thành điểm tựa để người dân nơi đây phát triển du lịch bền vững, gắn sinh kế với trách nhiệm bảo vệ rừng.

Nhà khoa học của nhà nông và hành trình đưa dược liệu bền vững đến với nông dân Lào Cai

Nhà khoa học của nhà nông và hành trình đưa dược liệu bền vững đến với nông dân Lào Cai

Từ những cánh đồng Atiso xanh mướt đến rừng chè dây bạt ngàn, mô hình phát triển dược liệu của Công ty TNHH Một thành viên Traphaco Sa Pa đang góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và bảo tồn tri thức bản địa. Đặc biệt, nhà khoa học Đỗ Tiến Sỹ – Giám đốc công ty đã mang đến những giải pháp khoa học tiên tiến, mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp vùng cao, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

 Tỉ lệ che phủ rừng của xã Quy Mông đạt 73,3%

Quy Mông trồng rừng đạt 102% kế hoạch

Xã Quy Mông được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba xã Y Can, Quy Mông và Kiên Thành, có tổng diện tích 149,17 km2, diện tích rừng tự nhiên hơn 2.900 ha, tỷ lệ độ che phủ rừng của xã 73,3%. Năm 2025, công tác Quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng của xã Quy Mông đạt được nhiều kết quả tích cực.

Đưa Bảo Hà thành xã phát triển của tỉnh

Đưa Bảo Hà thành xã phát triển của tỉnh

Trước đây, trong định hướng phát triển đô thị của tỉnh, đô thị Bảo Hà - Tân An nằm trong chuỗi đô thị dọc sông Hồng, đô thị đầu chuỗi là thành phố Lào Cai, tiếp theo là các đô thị Phố Lu, Tằng Loỏng (huyện Bảo Thắng), Bảo Hà (huyện Bảo Yên), Tân An (huyện Văn Bàn). Đây là chuỗi đô thị trung tâm của tỉnh, nơi bố trí phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ logistics, được định hình là khu vực động lực quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế.

Đồng hành cùng hộ kinh doanh trong bước chuyển mới

Đồng hành cùng hộ kinh doanh trong bước chuyển mới

Từ ngày 1/1/2026, cơ chế thuế khoán sẽ chính thức chấm dứt, đánh dấu bước ngoặt đối với hàng triệu hộ kinh doanh trong cả nước; trong đó có hơn 38.800 hộ kinh doanh của tỉnh Lào Cai phải chuyển đổi. Trong “cuộc chuyển mình” này, ngành ngân hàng đóng vai trò như một “bệ đỡ” công nghệ, giúp hộ kinh doanh vượt qua rào cản công cụ số và quy trình vận hành số.

Mở hướng thoát nghèo bền vững ở xã Bát Xát

Mở hướng thoát nghèo bền vững ở xã Bát Xát

Với phương châm “trao cần câu thay vì cho con cá”, xã Bát Xát chú trọng phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong việc trực tiếp hỗ trợ, hướng dẫn người dân chuyển đổi tư duy sản xuất, từng bước vươn lên ổn định cuộc sống. Từ thực tiễn đó, nhiều hộ dân đã thoát nghèo, tạo sức lan tỏa tích cực trong cộng đồng.

Những mô hình dân vận khéo ở Châu Quế

Những mô hình dân vận khéo ở Châu Quế

Thời gian qua, xã Châu Quế đã triển khai và nhân rộng nhiều mô hình “dân vận khéo” gắn với phát triển kinh tế, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

Xu hướng phát triển xe điện tại Lào Cai

Xu hướng phát triển xe điện tại Lào Cai

Những năm gần đây, cùng với xu thế chuyển đổi xanh, các loại phương tiện sử dụng điện xuất hiện ngày càng nhiều tại Lào Cai. Từ xe máy điện, ô tô điện đến taxi điện, sự hiện diện ngày một rõ nét của dòng phương tiện này phản ánh sự thay đổi trong lựa chọn đi lại của người dân, cho thấy bước chuyển của giao thông đô thị theo hướng thân thiện với môi trường.

Khe Bàn: Đất khó "nở hoa" từ kinh tế rừng

Khe Bàn: Đất khó "nở hoa" từ kinh tế rừng

Từng là thôn vùng cao đặc biệt khó khăn, giao thông cách trở, Khe Bàn, xã Bảo Hà nay đã vươn lên nhờ phát triển kinh tế rừng với cây quế làm chủ lực. Dưới sự định hướng đúng đắn của cấp ủy, chính quyền cùng tinh thần cần cù, đoàn kết của đồng bào Dao, vùng đất khó năm nào đang “nở hoa”, mang lại cuộc sống ngày càng no ấm cho người dân.

[Infographic] Kết quả phát triển kinh tế - xã hội xã Bảo Hà năm 2025

[Infographic] Kết quả phát triển kinh tế - xã hội xã Bảo Hà năm 2025

Sau sáp nhập, Bảo Hà nổi lên với nhiều lợi thế: nông nghiệp hàng hóa phát triển, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năng động, hạ tầng giao thông thuận lợi và tài nguyên văn hóa - tâm linh phong phú. Năm 2025, UBND xã triển khai đồng bộ các giải pháp, vượt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, phát triển du lịch, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân và đóng góp tích cực vào ngân sách địa phương.

fb yt zl tw