Dù hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ (28 tuổi), nhưng Lê Anh Xuân đã để lại dấu ấn sâu sắc với những vần thơ giàu cảm xúc, lấp lánh hình ảnh người lính và đất nước trong thời khắc sống còn của dân tộc.
Lê Anh Xuân sinh năm 1940 trong một gia đình trí thức yêu nước ở Bến Tre. Khi nhỏ, ông sống với cha mẹ ở vùng kháng chiến miền Tây Nam bộ. Năm 1952, ông làm việc ở nhà in thuộc Sở Giáo dục Nam bộ. Năm 1954, Lê Anh Xuân theo gia đình tập kết ra Bắc và học ở Trường học sinh miền Nam (Hải Phòng) và Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Tốt nghiệp đại học, ông làm phụ giảng một thời gian ngắn tại khoa Sử của trường. Ông sớm tiếp xúc với thi ca và thể hiện năng khiếu văn chương từ thời sinh viên. Cuối năm 1964, ông tình nguyện về Nam và công tác ở tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục rồi chuyển sang công tác ở ngành văn (Hội Văn nghệ Giải phóng).

Nhà thơ Lê Anh Xuân hy sinh tại mặt trận Sài Gòn ngày 24.5.1968. Trước đó 2 tháng, ông viết bài thơ cuối cùng Dáng đứng Việt Nam, gửi cho Tạp chí Văn nghệ Giải phóng rồi lên đường đi chiến đấu và hy sinh khi mới 28 tuổi. Có thể nói, bài thơ Dáng đứng Việt Nam là một tượng đài bất tử của thi ca yêu nước trong hơn nửa thế kỷ qua. Đây là một bài thơ bi hùng mang tính tráng ca và âm hưởng sử thi. Bài thơ dựng lên một bức tranh bi tráng và khốc liệt trong cuộc chiến sinh tử giải phóng đất nước với hình tượng lẫm liệt, oai hùng của người chiến sĩ. Trong bài thơ, người chiến sĩ vô danh khi hy sinh trên đường băng Tân Sơn Nhất đã được nhà thơ khắc tạc dáng đứng vào lịch sử dựng nước và giữ nước ngàn năm của dân tộc ta: "Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt/Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/Và Anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng./Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng/Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn/Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm/Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công/ (…) Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường/Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ/Anh là chiến sĩ Giải phóng quân...".
Nhà thơ Giang Nam cho biết, bài thơ trên được Lê Anh Xuân viết sau buổi nói chuyện của ông với anh em trong tòa soạn Văn nghệ Giải phóng về chuyến đi thực tế vào Sài Gòn trong đợt 1 chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Trong đó, ông có kể về tấm gương một chiến sĩ giải phóng quân đã chiến đấu đến phút cuối cùng và dũng cảm hy sinh trên đường băng Tân Sơn Nhất với tư thế đang đứng bắn. Nghe câu chuyện này, Lê Anh Xuân đã khóc và thức suốt đêm để viết bài thơ Anh giải phóng quân, sau đó được nhà văn Anh Đức đổi thành Dáng đứng Việt Nam in trên Văn nghệ Giải phóng. Lê Anh Xuân không được đọc bài thơ của mình in trên báo vì ông đã tình nguyện xung phong vào Sài Gòn đợt 2 chiến dịch Mậu Thân 1968 và hy sinh ở chiến trường.
Trong đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, Lê Anh Xuân từ căn cứ theo giao liên về thẳng mặt trận Sài Gòn. Nhà thơ Giang Nam kể lại: "Lê Anh Xuân nói: Tụi em về Nam là để chiến đấu với đồng bào, với anh em. Nếu về chỉ để đứng xem và viết thì về làm gì". Lê Anh Xuân đi rồi, chúng tôi nhận được điện của anh Trần Bạch Đằng yêu cầu không để Lê Anh Xuân đi. Nhưng đã muộn mất rồi!".
Năm 2001, giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật được trao cho nhà thơ Lê Anh Xuân. Năm 2011, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngay từ năm 1960, khi mới 20 tuổi, Lê Anh Xuân đã nổi tiếng với bài thơ Nhớ mưa quê hương đoạt giải nhì cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn VN. Khi trở lại quê nhà miền Nam, ông có các tập thơ Tiếng gà gáy, Hoa dừa, trường ca Nguyễn Văn Trỗi, truyện ký Giữ đất và bài thơ cuối cùng Dáng đứng Việt Nam (3.1968). Câu thơ cuối cùng, ông viết như một lời tiên tri về ngày chiến thắng của dân tộc và đất nước đang đến gần: "Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt/Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân".
Cùng với Dáng đứng Việt Nam, các bài thơ như Nhớ mưa quê hương, Lửa rừng, Một chuyến về thăm quê, hay các sáng tác đăng rải rác trên báo chí kháng chiến của Lê Anh Xuân đều thể hiện rõ chất Nam bộ phóng khoáng, cái tình sâu nặng với quê hương, đồng bào và đồng đội. Ông không tô vẽ hiện thực bằng những từ ngữ sáo rỗng mà truyền tải vẻ đẹp thực sự của lòng yêu nước, một tình yêu giản dị, trong trẻo, như chính con người ông.
Dù chiến tranh khốc liệt, thơ Lê Anh Xuân không bi lụy mà luôn hướng tới ánh sáng, niềm tin và khát vọng sống. Lê Anh Xuân để lại cho thi ca VN hiện đại bài học quý giá: Thơ và đời không thể tách rời, chính sự dấn thân vào hiện thực kháng chiến, sống và chiến đấu giữa lòng dân tộc đã tạo nên nguồn năng lượng chân thực trong thơ ông. Trong dòng chảy thi ca VN hiện đại, Lê Anh Xuân là minh chứng cho chân lý: nhà thơ có thể ngã xuống, nhưng thơ và lý tưởng thì mãi mãi đứng lên. (còn tiếp)