
Với tôi, cái tên phố mỏ Cam Đường mà nhiều người thường gọi để chỉ khu phố Mỏ Apatit Lào Cai nghe thật gần gũi, thân thương. Thành phố ngày một rộng dài, dọc ngang kết nối, thế mà tôi lại thấy chạnh lòng, hình như phố mỏ cứ khiêm nhường và dần nhỏ bé hơn xưa.
Gọi là phố mỏ Cam Đường theo tên cũ xưa chứ thực ra nơi đây chỉ vẻn vẹn có vài ba con phố mà trục chính là đường Hoàng Quốc Việt, đoạn kéo dài từ cầu chui Bắc Lệnh đến Bến Đá. Phố mỏ nằm gọn một phần thuộc phường Bắc Lệnh rồi vắt sang phường Pom Hán, trung tâm là khu tượng đài, sân vận động, nhà truyền thống cùng với mấy nhánh đường mang cái tên rất mộc mạc, chân quê: Bến Đá, Giàn Than, Cầu Gồ, dốc Ba Tầng…

Từ đỉnh đồi truyền hình nhìn xuống, dáng phố mỏ liêu xiêu tựa kẻ lãng du lúc tỉnh, lúc say; những mái nhà vịn vào triền đồi theo hàng, theo lối giống như nét thanh, nét đậm trong bức ký họa ruộng bậc thang. Không phải Sa Pa cũng chẳng phải Bắc Hà, ấy thế mà có những sớm mai thức dậy, chợt thấy mây bay ùa vào ngõ nhỏ, tôi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp huyền ảo, hư vô. Phố núi của tôi như thực như mơ, như gọi mời lữ khách đến thỏa đam mê, nơi có cái tên mới nghe đã thấy cả vị dịu chua và dịu ngọt - thị xã Cam Đường.
Ngược dòng thời gian, phố mỏ Cam Đường vốn là trung tâm của vùng đất mỏ với những khu nhà xây cho các chuyên gia Liên Xô ở từ những năm 60 của thế kỷ trước, nhiều người gọi mãi thành quen nên mới có tên gọi phố Tây. Quanh phố Tây là những khu nhà tập thể dành cho công nhân ở, đến nay vẫn còn in đậm dấu thời gian, như chứng nhân của một thời bao cấp, trở thành hiện vật “quý hiếm” khó còn tìm thấy ở bất cứ nơi đâu. Cũ kỹ là vậy mà phố mỏ lại mang trong mình sự hối hả của nhịp sống công nghiệp, bởi những chuyến xe giao ca xuyên đêm bất kể mưa dông giá rét, những hồi còi giục giã của đoàn tàu chở quặng vào ga và còn nữa là màu xanh sắc áo công nhân, tất cả trở thành thanh âm, sắc màu cuộc sống.

Có một chút gì đó cũng rất riêng khi nói về phố mỏ, ấy là ở đây vẫn tìm thấy nét văn hóa cộng đồng từa tựa làng quê. Ví như khi bạn hỏi thăm địa chỉ một người ở đầu phố mà ai đó ở tận cuối phố vẫn có thể biết tận tường và chỉ dẫn đến nơi. Chuyện tưởng lạ nhưng là có thật, vì cư dân nơi đây họ đều biết đến nhau. Họ biết nhau do làm cùng xí nghiệp hay cùng đơn vị sản xuất, hoặc nữa là đồng hương, cùng gắn bó một thời. Rất nhiều và rất nhiều cái cùng để mà biết, để mà thân, để mà “có họ” - ấy là cách ví von của người dân phố mỏ vẫn thường đùa nhau những lúc tề tựu đông vui. Rồi cũng còn một lẽ rất giản đơn để lý giải vì sao họ sống với nhau rất “tình làng, nghĩa xóm”, bởi cùng chung khu tập thể, ngõ hẹp phải nhịn nhường đến cả lối đi, đôi khi vẫn nhường cho nhau từng xô nước và còn nhiều cái phải nhịn nhường vì thời bao cấp rất khó khăn, nương tựa vào nhau trở thành nếp sống hằng ngày và nét đẹp ấy vẫn còn lưu giữ đến tận hôm nay.

Kể về phố mỏ Cam Đường chưa thật đủ đầy nếu chưa nói về tượng đài người thợ mỏ. Tôi có anh bạn là họa sỹ công tác tại Báo Lao Động. Anh là học trò nhà điêu khắc Vũ Tiến - tác giả công trình nghệ thuật Tượng đài “Vinh quang thuộc về các thế hệ công nhân Mỏ Apatit Lào Cai”. Thời gian anh làm phụ tá cho thầy Vũ Tiến đã nhiều lần đến Lào Cai, chúng tôi thường gặp nhau bên ấm trà, ly rượu và tôi cũng được nghe anh kể chuyện hậu kỳ quanh việc thiết kế, chọn mẫu, chọn đá rồi quá trình điêu khắc tượng đài. Ấy thế mà khi tản bộ quanh sân vận động, tôi chợt giật mình ngỡ ngàng khi có người chỉ tay và khoe với bạn “kia là tượng của mình”. Tìm hiểu ra mới biết là họ được chọn chụp hình để nhà điêu khắc và lãnh đạo công ty chọn mẫu, làm ý tưởng cho việc sáng tạo tác phẩm điêu khắc tượng đài cùng với bức phù điêu. Thực hư thế nào thì tôi chưa thật rõ, nhưng có điều chắc chắn rằng “tượng đài là niềm tự hào của bao thế hệ công nhân Mỏ Apatit Lào Cai”. Vậy thì người thợ mỏ nào mà chẳng thấy hình bóng của mình trong đó.

Nhân đây, tôi xin được kể câu chuyện lịch sử có ý nghĩa như một tượng đài được khắc ghi trong trái tim người dân đất mỏ, sự kiện gắn liền với địa danh ga Pom Hán. Đó là vào sáng 23 tháng 9 năm 1958, có một đoàn tàu hỏa “đặc biệt” xuất phát từ ga Pom Hán đến phà Làng Giàng đón Bác Hồ vào thăm mỏ Apatit Lào Cai. Ngày đó đã trở thành mốc son lịch sử - ngày truyền thống của công ty, ngày hội của người dân đất mỏ. Nhưng điều diệu kỳ hơn là đoàn tàu với toa xe Va goong chuyên dùng chở quặng đã được chở một Vĩ nhân, có lẽ trên thế giới chỉ có Bác Hồ - vị lãnh tụ của Nhân dân mới bình dị, đời thường đến vậy.

Một ngày mới lại về trên vùng đất mỏ thân yêu, thanh âm cuộc sống ngập tràn, nghe ngân nga giai điệu vừa lạ vừa quen của một nhạc phẩm về vùng đất mỏ, hình như là của tác giả Bùi Văn Việt, ông từng làm Tổng Giám đốc Công ty Apatit Việt Nam. Có ai đó đã kể với tôi là ông Việt sáng tác hàng chục ca khúc về vùng đất mỏ và có người còn bảo, ông ấy làm Tổng Giám đốc thì sáng tác cái gì mà chẳng được khen. Nhưng với tôi, nghe những ca khúc vừa lạ vừa quen khi ấy lại cảm nhận được tình yêu vùng đất mỏ trong ông. Chả thế mà các thế hệ công nhân, nhiều người đến nay vẫn thường nhắc tới ông với những lời chân tình, quý mến. Phải chăng đó là cái nghĩa, cái tình của người thợ mỏ dành cho các thế hệ lãnh đạo có nhiều đóng góp cho vùng đất mỏ hôm nay.

Lãng du trên phố lất phất mưa bay, hình như đất trời đã chuyển sang xuân, dãy bằng lăng mới hôm nào còn sắc hoa rực rỡ, nhuộm tím cả khoảng trời trung tâm phố mỏ, nay lại thấy khẳng khiu, chớm bật chồi non. Thế mới biết trời đất xoay vần hệt như con tạo, mùa cứ qua mùa xuân - hạ - thu - đông; năm tháng cứ đuổi theo nhau đẩy thời gian đến dài vô tận. Trong mênh mang dự cảm, tôi chợt thấy dáng hình phố mỏ Cam Đường mai mốt cứ dần xa và để rồi chỉ còn trong ký ức thời gian.