Chuyện miếng trầu

YBĐT - Miếng trầu trở nên không thể thiếu trong phong tục và sinh hoạt của người Việt Nam. Miếng trầu gắn liền với chuyện nhân duyên, việc cưới hỏi của người Việt. Thế nên dù bây giờ chẳng còn mấy ai ăn trầu nhưng trong lễ cưới hỏi vẫn phải có quả cau lá giầu làm sính lễ.

Một buổi sáng ra đường đi làm bỗng ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi gặp liền mấy nhà chăng đèn kết hoa, lung linh rạp cưới. Thì ra vẫn đang là mùa cưới. Mình đã qua tuổi xúng xính váy áo đi đón tráp, rước dâu của bè bạn, thỉnh thoảng mới nhận được một thiệp hồng xinh xinh của ai đó mải chơi mãi mới chịu lấy vợ lấy chồng, thế nên hôm trước đi đám cưới người bạn, tần ngần trước miếng trầu cánh phượng mà cô dâu rất xinh vừa mời mà lòng dậy lên bao suy nghĩ…

Miếng trầu cánh phượng được têm rất khéo, lại được điểm thêm một cánh hoa hồng nên càng nổi bật, bắt mắt. Tin rằng đây là sự sáng tạo của người thời nay, chứ ở thời Tấm Cám, chắc miếng trầu không cầu kì, rắc rối đến thế, chỉ xanh lá, bạc vôi, đỏ vỏ mà thôi.

Trong tâm thức, phong tục của người Việt, miếng trầu luôn gắn liền với nhân duyên, với tín ngưỡng thờ cúng ông bà, tổ tiên. Ngày giỗ, tết, rằm, mùng một, trên bàn thờ bao giờ cũng phải có quả cau, lá trầu. Bởi thế nên khi xưa, dù đã là hoàng hậu, Tấm vẫn về trèo cau để hái quả nhân ngày giỗ bố.

Thế nên mới có chuyện cô Tấm bị mẹ con gì ghẻ chặt cau đuổi kiến giết chết. Lòng hiếu thảo đã bị kẻ ác tâm lợi dụng, lường gạt. Nhưng cũng miếng trầu, quả cau lại là vật cứu nạn, là của tin, là vật kết nối nhân duyên khiến Tấm có thể đường hoàng trở lại hoàng cung làm chính thất khi nhà vua nhận ra miếng trầu cánh phượng là của vợ mình têm.

Chắc cũng phải dấu yêu nhiều lắm thì nhà vua mới nhận ra được cái khéo léo, tinh tế, cái dấu ấn riêng trong miếng trầu cô Tấm têm. Mà cũng phải do trời xui đất khiến, ở hiền gặp lành thế nào nên nhà vua mới đến đúng hàng nước ấy để uống một chén nước chè xanh, ăn một miếng trầu mà tìm được người vợ hiền yêu dấu. Cũng may, thời xưa dân ta có tục ăn trầu, đàn ông cũng ăn trầu, thế nên những người yêu nhau mới tìm lại được nhau.

Chúng mình ngày nay, lấy gì để nhận ra nhau trong cõi đời nhiều đa đoan, lung lạc? Nàng Mị Châu xưa còn có lông ngỗng rắc đường, cô Tấm có miếng trầu cánh phượng… còn ta có gì ngoài một khối tình chung?

Nhắc chuyện miếng trầu ta lại nhớ đến một bi tình sử trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – “Sự tích Trầu cau”. Mới lấy nhau, hương nồng lửa đượm, nên người vợ mới không kìm được nhớ nhung mà bạo dạn đến thế (so với thời xưa) để chạy ra ôm đón người chồng khi chàng đi làm về, đến nỗi nhầm với người em sinh đôi của chồng, gây nên hiểu lầm bi kịch về sau. Nỗi oan không được tỏ bày, giải tỏa, người em lặng lẽ bỏ đi, rồi kiệt sức chết bên bờ suối, biến thành tảng đá trắng. Người anh máu mủ xót thương đi tìm em, rồi cũng chết đúng chỗ người em nằm, hóa thành cây cau.

Lòng chung thủy, nghĩa phu thê, nỗi xót đau cũng khiến xui người vợ đi tìm chồng, tìm em rồi chết bên cây cau, tảng đá, hóa thành dây trầu ôm quấn lấy cây cau. Người con gái khi xưa, khi còn sống có thể vô tình nhận nhầm chồng mình nhưng đến khi chết đi thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ nhầm được. Nàng chết, hóa thành dây trầu và quấn vào cây cau chứ không phải tảng đá. Dây trầu tượng trưng cho sự mềm mại, dịu dàng, nữ tính, tiết hạnh thơm cay.

Cây cau tượng trưng cho sự ngay thẳng, luôn sẵn lòng che chở cho thân gái liễu yếu đào tơ. Tảng đá tượng trưng cho sự trong trắng, vững vàng… Họ đứng bên nhau và kết thành mối thâm tình ngàn năm của lòng thuỷ chung, sự độ lượng và bao dung. Tách riêng ra thì chỉ thấy xanh lá, xanh quả, bạc vôi, ấy thế mà khi hòa quyện vào lại nên một màu đỏ son như máu. Cũng từ đấy mà dân ta có tục ăn trầu và mới có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện”…

Miếng trầu trở nên không thể thiếu trong phong tục và sinh hoạt của người Việt Nam. Miếng trầu gắn liền với chuyện nhân duyên, việc cưới hỏi của người Việt. Thế nên dù bây giờ chẳng còn mấy ai ăn trầu nhưng trong lễ cưới hỏi vẫn phải có quả cau lá giầu làm sính lễ. Trong tiệc cưới, những cô dâu xinh xinh mi ướt bẽn lẽn bưng đĩa trầu têm cánh phượng đi mời quan viên hai họ. Những người không biết ăn trầu cũng cầm lấy một miếng mà ngắm nghía xuýt xoa. Chợt nhớ đến một bài hát quan họ với lời ca thật thiết tha, ngọt ngào:

Gặp đây ăn một miếng trầu
Không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.
Trầu này trầu tính trầu tình.
Ăn vào cho đỏ môi mình, môi ta.

Hay:

Trầu này trầu của em têm
Anh xơi một miếng càng thêm mặn nồng
.

Ừ thôi, thì cầm lấy đi cho nhau vừa lòng... Mấy cô bé không ăn trầu mà má cũng hồng rực, môi cũng đỏ son, mắt cũng nồng nàn như say. Biết đâu từ sau đám cưới này lại có những người thành đôi?

Chỉ có những chị hai xinh của quan họ mới rụt rè, khiêm nhường đến thế. Hãy nghe Hồ Xuân Hương mạnh dạn thế này:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi

   (Mời trầu)

Cũng là mời trầu, nhưng cô gái quan họ ở trên kia tình tứ, lúng liếng, ngọt ngào biết bao nhiêu còn Hồ Xuân Hương lại chua chát, đáo để bấy nhiêu. Trầu thì hôi, cau thì nhỏ mà mời lại cứ dấm dẳng như muốn dúi vào tay người ta, như muốn dọa, muốn đe người ta vậy. Kiểu như ăn thì ăn, không ăn thì thôi, đừng bạc bẽo quá. Mời thế, chắc chỉ người tri kỉ, từng trải hoặc đã từng biết đến nàng thi sĩ của Cổ Nguyệt Đường mới dám nhận thôi, còn những kẻ giăng gió đa sự chắc cũng phải rút lui trong hổ thẹn... Trong văn học Việt Nam chắc cũng chỉ có mình Hồ Xuân Hương như thế. Nhưng cũng không thể trách nàng.

Trải qua bao lạnh lùng của kiếp chồng chung, nhân duyên không trọn vẹn, tuổi xuân vùn vụt trôi, lòng đã ngấm bao đắng cay của phận hẩm duyên ôi nên lời nói đầu môi cũng thành ra chao chát. Ẩn sâu trong đó lại là một khát khao cháy bỏng có một mối duyên thắm đỏ như khi trầu cau quấn quyện. Khi ấy ta bỗng thấy thương nàng xiết bao! 

Có một người con gái cũng cá tính, đáo để như thế khi viết về tình chị, duyên em:

Chị thản nhiên mối tình đầu
Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm

(Chồng chị, chồng em – Đoàn Thị Lam Luyến)

Giời ơi! Cái bã trầu thì còn gì nữa đâu? Nhưng mà thôi, cũ người mới ta, đem về têm lại, thêm cau, thêm giầu cho thắm, thêm vôi cho nồng, chắc vẫn đủ cho thành môi cắn chỉ quết trầu, vẫn say được lòng những người nặng tình, nặng nợ. Cái sự thản nhiên kia khiến ta xót xa nhưng cũng cảm phục xiết bao bởi sự bao dung, vị tha đến thách thức dữ dội, mãnh liệt trong đó...

... Lan man mãi chuyện miếng trầu mới nhớ ra miếng trầu cầm về từ đám cưới hôm trước. Cánh hồng đã héo, cau đã se se, lá vừa chớm xám. Nhưng nhớ đến nụ cười lúng liếng của người mời trầu nên mình vẫn quyết định ăn thử. Một vị vừa ngọt, vừa the cay xộc đến. Và rồi hình như cũng say say... Chợt tủm tỉm mà nhớ đến những câu thơ này của Phan Thị Thanh Nhàn:

Các cụ ông say thuốc
Các cụ bà say trầu
Còn con trai con gái
Chỉ nhìn mà say nhau.

Nguyễn Thị Thu Hiền

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa đền Làng Lúc

Phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa đền Làng Lúc

Bảo Hà là vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Đây cũng là nơi hội tụ nhiều di tích, di sản nổi tiếng, trong đó có đền Làng Lúc – ngôi đền thờ ba vị tướng dưới trướng ông Hoàng Bảy. Nơi đây từ lâu đã trở thành điểm đến tâm linh của đông đảo du khách.

Ánh sáng đêm

Ánh sáng đêm

Tháng Tám, tiết trời sang thu dịu mát. Về đêm, thành phố như khoác lên mình tấm áo mới, lung linh dưới ánh đèn cao áp trải dọc khắp các con đường. Từ trên cao nhìn xuống, những vệt sáng ấy tựa những sợi chỉ muôn màu, khéo léo đan cài, uốn lượn qua từng phố phường, ngõ nhỏ, huyền ảo như trong cổ tích.

Lung linh sắc màu đèn Trung thu

Lung linh sắc màu đèn Trung thu

Những ngày này, khi phố phường lên đèn cũng là lúc không khí lễ hội bắt đầu ở xã Thác Bà. Người người đi lại nườm nượp trên những tuyến đường, tiếng hát nhạc rộn ràng: “Tùng dinh dinh tùng tùng dinh dinh/ Đây ánh sao vui chiếu xa non ngàn/ Tùng dinh dinh dinh dinh tùng dinh dinh/ Ánh sao Bác Hồ tỏa sáng nơi nơi...”. Trẻ em ngồi lên xe chở đèn, người lớn đẩy đi khắp phố trong tiếng hò reo. Vùng quê ven sông Chảy rực rỡ và lung linh. Mùa Trung thu đã bắt đầu!

Mường Khương: Sôi nổi các hoạt động văn nghệ, thể thao chào mừng Đại hội Đảng các cấp

Mường Khương: Sôi nổi các hoạt động văn nghệ, thể thao chào mừng Đại hội Đảng các cấp

Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 và tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, những ngày này, xã Mường Khương đã tổ chức nhiều hoạt động thể thao, văn nghệ, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong nhân dân.

Người giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống Xơ Đăng

Người giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống Xơ Đăng

Lặng lẽ kiên trì bên khung cửi, bàn tay thoăn thoắt đưa thoi, bà Xong ở buôn Kon Wang, xã Tân Tiến, tỉnh Đắk Lắk đang ngày ngày dệt nên những tấm thổ cẩm đầy sắc màu. Trong cuộc sống hiện đại, thổ cẩm do bà làm ra đang theo bước chân con cháu đưa giá trị, hồn cốt của dân tộc đi xa.

Triển lãm chuyên đề “Thành tựu kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai giai đoạn 2020 - 2025" chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030

Triển lãm chuyên đề “Thành tựu kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai giai đoạn 2020 - 2025" chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030

Sáng 27/9, tại Bảo tàng tỉnh (cơ sở 1), Sở Nội vụ phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc Triển lãm chuyên đề “Thành tựu kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai giai đoạn 2020 - 2025” và “Dấu ấn chia tách, sáp nhập tỉnh Lào Cai qua tài liệu lưu trữ”. Sự kiện diễn ra nhằm chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. 

Kể chuyện qua tiếng khèn

Kể chuyện qua tiếng khèn



Giữa đại ngàn Tây Bắc hùng vĩ, nơi những nếp nhà sàn ẩn mình bên sườn núi, tiếng khèn nứa của Nghệ nhân Ưu tú Hoàng Hữu Định ở thôn Khe Ngang, xã Yên Thành vẫn đều đặn ngân vang. Không đơn thuần là âm nhạc, tiếng khèn ấy như lời kể chuyện về truyền thống, về ký ức và linh hồn văn hóa của một người cả đời gắn bó, nâng niu và tự hào về văn hóa dân tộc Dao quần trắng.

Gìn giữ và phát huy giá trị bảo vật quốc gia ở Lào Cai

Gìn giữ và phát huy giá trị bảo vật quốc gia ở Lào Cai

Từ lâu, Lào Cai được biết đến không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, mà còn vì kho tàng di sản đặc sắc của cộng đồng các dân tộc. Đến nay, tỉnh đã có 3 hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia gồm: trống đồng Pha Long, trống đồng Gia Phú và thạp đồng Hợp Minh. Đây là niềm tự hào to lớn, đồng thời đặt ra trách nhiệm trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị.

fb yt zl tw