Quay vềE-magazineTheo dõi Báo Lào Cai trênGoogle News

Bài 2: Người lái đò ở “Trường Sa cạn”

0B03A025-E70E-4867-9055-240047CE863A.jpeg

Trong biết bao con đường ở dải đất nghèo Dìn Chin (huyện Mường Khương), có lẽ không có nơi nào mà cô giáo Nguyễn Thị Uyến chưa đặt chân đến. Hành trình từ một cô gái trẻ ở miền xuôi lên vùng cao đến khi đã dành trọn nửa cuộc đời để “gieo chữ” cho học sinh ở miền "đất khát” là một chặng đường đầy gian khó mà cũng vô cùng ý nghĩa.

6F2FF757-9743-4915-B1C6-D7FCA41FF8A6.jpeg

"Xứ Mường" là mảnh đất xa xôi, với đặc thù mùa đông đến sớm nhưng đi muộn. Chẳng vậy mà khi ở vùng thấp, mùa hạ bắt đầu chuyển mình thì ở nơi non cao của xã Dìn Chin, chỉ một trận mưa thôi là đất trời lại vương mùa lạnh. Từ điểm trường chính của Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Lồ Sử Thàng, chúng tôi bắt đầu hành trình ngược núi trong tiết trời như thế, giữa lãng đãng mây sương.

Quãng đường dài chừng 7 km, dưới tay lái cừ khôi của các thầy cô cũng mất 30 phút mới đến nơi. Cả khoảng không lặng im, chỉ nghe tiếng xe gằn ngược dốc núi, bám theo con đường quanh co lên đỉnh, nơi đó có một điểm trường khó khăn nhất mang tên Sín Chải A.

BE56AE63-3BE2-4F00-ACF6-E9CAC7655CBD.jpeg

Lớp học của những trò nhỏ người Mông ở Sín Chải A nằm trên triền núi nhỏ, bên cạnh tuyến đường trục thôn. Mùa xuân năm nay, đàn én từ nơi đâu bay về làm tổ bên khung lớp học như mang theo phúc lộc, điềm lành về với rẻo cao này. Thôn người Mông trên núi cao được “đánh thức” bởi những thanh âm trong trẻo với tiếng chim ríu rít gọi nhau quanh tổ ấm và tiếng trẻ non nớt đọc bài.

9 học sinh lớp 2 do cô giáo Nguyễn Thị Uyến làm chủ nhiệm bắt đầu buổi học như thường lệ. Từ lời cô giáo giảng và những hình ảnh sinh động trên chiếc máy chiếu mà điểm trường mới được trang bị, đám trẻ say sưa với bài học.

986E82DE-F7E1-4A88-AB9E-336B9979DD81.jpeg

Cách đây hơn 10 năm, cô Uyến lần đầu đặt chân đến Sín Chải A. Thuở ấy, con đường lên thôn khó khăn vô cùng, chỉ là đường đất đá, nhỏ hẹp với những khúc cua tay áo ngược dốc. Đường sá gian nan, điều kiện eo hẹp, các thầy cô dạy ở điểm trường khi ấy đều ở lại dạy học cả tuần. Điểm trường trở thành nơi kiên cố nhất ở bản nghèo khi đó, với dãy nhà gỗ có 5 lớp học, 3 phòng công vụ, 1 gian bếp nhưng nơi nào cũng thiếu thốn đủ bề. Những bữa ăn với cá mắm, rau rừng trở nên quen thuộc của thầy cô cắm bản.

Thời điểm đó, để đi từ nhà ở thị trấn Mường Khương lên điểm trường, cô giáo Uyến phải đi đường vòng qua các thôn của xã Tung Chung Phố, Pha Long rồi mới lên đến điểm trường Sín Chải, xã Dìn Chin. Mùa mưa năm 2016, trong một lần lên điểm trường dạy, cô giáo Uyến bất ngờ gặp lũ trên con suối Mào Sao Chải, cả người cả xe chơi vơi giữa dòng nước, may mắn có người dân đi qua giúp đỡ kịp thời.

D5F59A15-8F76-4C85-84A6-9BB23F6DBDC7.jpeg

Hơn chục năm quay lại, Sín Chải A vẫn là vùng đất mến thương mà cô Uyến nặng lòng khi cuộc sống của rẻo cao này vẫn còn đầy rẫy khó khăn và con chữ trở thành “chìa khóa” mở cánh cửa tương lai cho những lứa măng non ở nơi này.

Sín Chải A là bản nghèo trên núi cao. Cả thôn có 72 hộ, gần 400 nhân khẩu, trong đó có đến 40 hộ nghèo và 32 hộ cận nghèo. Thực hiện chủ trương đưa học sinh từ điểm trường về học tại trường chính, hiện nay, điểm trường Sín Chải A chỉ còn 2 lớp học 1, 2. Hai căn phòng nhỏ dựng trên nền đất cũ là nơi những đứa trẻ học bài và cô giáo Uyến sau hơn 10 năm lại tiếp tục hành trình mang con chữ lên với rẻo cao gian khó.

7C9EF1C7-991C-41A0-98B3-B1760DD98CA6.jpeg
F5C685FB-8677-413F-9D67-BDC1DD417ACB.jpeg

Cô giáo Nguyễn Thị Uyến sinh năm 1978, quê ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Không giống như nhiều thầy cô khác đem niềm đam mê, yêu nghề cầm phấn từ trước, cô Uyến là “ngoại lệ”.

Năm 1994, khi vừa học xong THCS, trong một lần lên vùng cao Mường Khương chơi, Nguyễn Thị Uyến như bị níu chân bởi mảnh đất này. “Ngày còn nhỏ, mình yêu màu xanh lắm, ước mơ được khoác màu xanh áo lính. Sau này, khi có dịp lên Mường Khương, thấy núi rừng tươi xanh nên xin bố mẹ cho ở lại, học lên để được làm cô giáo”. Cơ duyên của cô Uyến và công việc “gieo chữ” ở mảnh đất khó Dìn Chin bắt đầu như thế.

174FACD9-FB60-4D61-8DA9-879ED7996481.jpeg

Dìn Chin từ lâu được biết đến là vùng "đất khát”, được ví như “Trường Sa cạn” ở đất thép Mường Khương bởi tình trạng thiếu nước sinh hoạt diễn ra trầm trọng vào mùa khô. Vậy nhưng, chẳng những khát nước sinh hoạt, đồng bào nơi đây còn “khát thông tin”, “khát tri thức”, “khát những đổi thay”.

Từ một cô gái ở vùng đồng bằng yên ả, cô Uyến đã dành cả thanh xuân để bám trường, bám bản, đem con chữ đến với học sinh ở vùng đất cạn Dìn Chin. Trong suốt 29 năm gắn bó với giáo dục vùng cao, đứng lớp dạy trẻ ở những điểm trường gian khó Cốc Cáng, Mào Sao Chải, Ngải Phóng Chồ, Dìn Chin… cho đến giờ, cô chưa bao giờ nghĩ đến bỏ cuộc.

B85FB5DC-4197-44D8-B053-90EAF0E50B1A.jpeg

Trưởng thôn Sín Chải A Ngải Sử Quáng nhớ lại, nhiều năm về trước, do cuộc sống khó khăn, việc học của con em đồng bào Mông nơi đây chưa được quan tâm. Mỗi khi vào mùa vụ, nhiều gia đình thiếu lao động nên cho con em nghỉ học để ở nhà phụ giúp. Các thầy cô giáo, trong đó có cô giáo Uyến cùng cán bộ thôn lại lặn lội đến từng hộ tuyên truyền, nói cái lý với đồng bào để trẻ em tiếp tục được đến lớp. Đến nay, việc học của con em trong thôn được quan tâm hơn nhưng mỗi khi có học sinh vắng mặt, cô giáo sẽ liên hệ với trưởng thôn để kịp thời nắm tình hình.

“Bà con nơi đây mong cô giáo tiếp tục gieo con chữ, giúp những đứa trẻ lớn khôn, trưởng thành, mạnh dạn vượt qua con suối lớn và đỉnh núi cao Ong Khoái để nuôi mơ ước bay cao”, ông Quáng tâm sự.

DAE20155-4CB6-4121-B8A4-807699063F55.jpeg

Lứa học trò đầu tiên cô Uyến dạy cách đây nhiều năm đã lớn khôn. Cô Uyến mừng vui khi cái chữ đã giúp học trò nghèo nơi đây vươn lên, biết phát triển kinh tế, đóng góp cho quê hương, thậm chí có cả người đã trở thành cán bộ, lãnh đạo xã. Với nữ nhà giáo, còn niềm vui nào hơn thế.

BDB867C7-6CBD-478A-84A8-DFD059EB778B.jpeg

Trong suốt câu chuyện kể, chúng tôi thấy tình yêu, sự nhiệt huyết luôn dâng trào trong lòng nữ nhà giáo Nguyễn Thị Uyến. Gần 30 năm gắn bó với nghề dạy trẻ ở vùng cao, những ngày lễ, tết, kỷ niệm của ngành, món quà cô giáo Uyến nhận được là tấm thiệp viết tay, bức tranh học sinh vùng cao tự vẽ; không có hoa thơm, không có lời chúc nhưng cô vẫn luôn thấy vui khi hằng ngày nhìn đám trẻ siêng năng, chuyên cần đi học. Đó là món quà và động lực lớn nhất để cô tiếp tục cố gắng.

C908C3B5-C387-48FF-AE82-305566C3AB6C.jpeg

Cuộc trò chuyện của chúng tôi với cô giáo Uyến chỉ quanh những điều giản dị, đời thường, công việc và cuộc sống của giáo viên vùng cao, vậy nhưng điều đáng quý là câu chuyện ấy luôn ngập tràn niềm vui và sự lạc quan.

Cô Uyến trải lòng: Được dạy học ở vùng cao đã mang lại cho tôi nhiều điều quý giá. Đó là cơ hội để tôi có thêm kinh nghiệm, vốn sống, được gắn bó với đồng bào và học trò. Còn nhớ cách đây nhiều năm, khi con tôi còn nhỏ, những ngày cháu ốm khóc, các bà, các mẹ ở thôn bế con giúp để tôi yên tâm đứng lớp. Sự cho đi của tôi còn quá ít nhưng lại may mắn nhận được rất nhiều...

D954F707-21A2-4017-95E5-26A16AA3CC6B.jpeg

Giữa trưa, tiếng trống tan học vang lên, đám trẻ như đàn chim non ùa nhau tìm về với tổ ấm là những mái nhà của đồng bào Mông ôm trọn quanh đỉnh núi ở Sín Chải. Phía sau, cô giáo Uyến vẫn đứng bên khung cửa nhìn theo những bước chạy của trẻ thơ cho tới khi bóng chúng khuất hẳn.

Con đường ấy là con đường sỏi đá chị từng đi cách đây nhiều năm, nhọc nhằn từng bước vào “mùa” gọi học sinh ra lớp. Giờ đây, mỗi độ nhìn về con đường mặc chiếc áo trắng phau, chị Uyến lại cười vui khi nó trở thành minh chứng, cầu nối để cô vượt núi, trò hạ sơn, viết lên những đổi thay về sự học ở “Trường Sa cạn”.

0E1F312A-BFFC-43CB-A213-AFB7E67F3DB2.jpeg

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Tang thương bản làng dưới chân núi Con Voi

Tang thương bản làng dưới chân núi Con Voi

Tai họa ập đến khi những đứa trẻ nhỏ ngủ chưa tròn giấc, những người lớn chưa kịp ra đồng, những người già đang mong trời tạnh ráo để giúp con cháu dọn dẹp nhà cửa... Ngay cả những người bi quan nhất cũng chẳng thể ngờ bản làng nhỏ bé định cư lâu đời, thuận hòa với thiên nhiên dưới chân núi Con Voi hùng vĩ lại một ngày phải hứng chịu cơn đại hồng thủy. Làng Nủ hôm nay chìm trong đau thương. Nghe tin dữ, chúng tôi như rụng rời chân tay.

Bài cuối: Bài học thực tiễn từ cơ sở

Thực trạng sắp xếp nhân sự dôi dư sau khi sáp nhập đơn vị hành chính Bài cuối: Bài học thực tiễn từ cơ sở

Thành công đạt được và hạn chế trong công tác sắp xếp cán bộ, công chức gắn với tổ chức bộ máy cho thấy cần có chính sách đặc thù để lựa chọn được đội ngũ có đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu công việc đồng thời làm công tác tư tưởng đối với đội ngũ cán bộ trong diện phải tinh giản.

Bài 2: Vẫn còn những khó khăn

Thực trạng sắp xếp nhân sự dôi dư sau khi sáp nhập đơn vị hành chính Bài 2: Vẫn còn những khó khăn

Năm 2021, khi triển khai sáp nhập đơn vị hành chính theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 – 2021, toàn tỉnh có 270 cán bộ, công chức (CBCC) cấp xã dôi dư. Sau gần 5 năm sắp xếp, các địa phương đã giải quyết nghỉ hưu 8 người, tinh giản biên chế 132 người, chuyển công chức cấp huyện 10 người, bố trí sắp xếp vị trí công tác khác 104 người.

Bài 1: Đợt sàng lọc, lựa chọn cán bộ

Thực trạng sắp xếp nhân sự dôi dư sau khi sáp nhập đơn vị hành chính Bài 1: Đợt sàng lọc, lựa chọn cán bộ

Thực hiện Đề án sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 - 2021, toàn tỉnh đã giảm được 12 đơn vị hành chính cấp xã; số cán bộ, công chức cấp xã dôi dư là 270 người. Tỉnh Lào Cai đã xây dựng lộ trình đến hết năm 2024 sẽ bố trí xong; tuy nhiên, hạn chót đã đến gần nhưng việc sắp xếp cán bộ, công chức dôi dư vẫn còn những khó khăn nhất định.

Khúc hoan ca miền núi đá

Khúc hoan ca miền núi đá

Mường Khương, "vùng đất thép" trên dọc dải biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Ở nơi mà đá núi nhiều hơn đất, giữa cộng đồng 23 dân tộc cùng sinh sống, có một tộc người đặc biệt và chỉ có duy nhất ở xứ Mường: Người Pa Dí! Một tộc người với số dân ít ỏi và đến sau rất lâu trong hành trình lập bản ở xứ Mường, nhưng từ sự đoàn kết và cần cù, họ trở thành một trong những chủ nhân của vùng đất khó, viết lên khúc hoan ca đầy hào sảng, sáng tươi về đất và người ở miền núi cao đá nhọn Mường Khương.

Giấc mơ Nậm Chăm

Giấc mơ Nậm Chăm

Nậm Chăm là thôn xa và khó khăn nhất xã Nậm Lúc (Bắc Hà) với 100% là đồng bào dân tộc Mông. Trước đây cả thôn hầu hết là hộ nghèo, nhờ được thụ hưởng các chính sách của Nhà nước, cùng nỗ lực vượt khó của bà con, đến nay đời sống của nhiều hộ đã được cải thiện.

Phát hiện dấu hiệu bị “rút ruột”

Công trình cấp nước sinh hoạt tại xã Thống Nhất: Phát hiện dấu hiệu bị “rút ruột”

Đó là công trình cấp nước sinh hoạt thôn Chang - thôn Muồng (Chang - Muồng), xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, do Công ty TNHH Một thành viên xây dựng Ngọc Hưng trúng thầu thi công theo hợp đồng trọn gói, Chủ đầu tư công trình là UBND xã Thống Nhất, tổng giá trị theo hợp đồng hai bên ký là 3.995.640.000 đồng (viết tròn là 3 tỷ 995 triệu đồng).

Sắc mới Sao Cô Sỉn

Sắc mới Sao Cô Sỉn

Tuyến đường bê tông nối từ Tỉnh lộ 154 như dải lụa xuyên qua nương ngô trải dài đang mùa thu hoạch, rồi “chạy” ven rừng sa mộc vươn cao thẳng tắp giữa làn sương mỏng khiến chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng như lạc vào trời Âu. Thấp thoáng bên đại ngàn là nhà xây cao tầng xen lẫn là những căn nhà truyền thống của người Mông. Sao Cô Sỉn bây giờ đẹp như vậy nhưng quay lại khoảng 15 năm trước, câu chuyện về mảnh đất này hoàn toàn khác.

Lịch sử hình thành tỉnh Lào Cai

Lịch sử hình thành tỉnh Lào Cai

Lào Cai thành lập ngày 12/7/1907 nhưng bối cảnh thành lập tỉnh Lào Cai như thế nào? Vì sao tỉnh dân sự Lào Cai lại thành lập muộn so với một số tỉnh trong vùng? Các đơn vị hành chính Lào Cai khi mới thành lập bao gồm những châu, huyện nào?...

Khẳng định vị thế “Sông đầu nguồn - núi tuyệt đỉnh”

Kỷ niệm 117 năm ngày thành lập tỉnh Lào Cai (12/7/1907 - 12/7/2024): Khẳng định vị thế “Sông đầu nguồn - núi tuyệt đỉnh”

Tháng 7 về, dòng sông Hồng thêm đậm sắc phù sa soi bóng thành phố trẻ Lào Cai đẹp dung dị, 117 năm chứng kiến biết bao sự đổi thay của vùng đất biên cương. Từ vùng đất hồng hoang nơi biên ải, Lào Cai hôm nay đã có diện mạo mới khang trang, to đẹp; phố phường, làng bản rực màu cờ đỏ sao vàng như nhân thêm niềm vui vị thế mới.

Bài cuối: Viết tiếp giấc mơ trên non ngàn

Người đi “gieo hạt chữ”: Bài cuối: Viết tiếp giấc mơ trên non ngàn

Trong tập truyện ký “Những người đi gieo hạt chữ” của Nhà giáo Ưu tú Cao Văn Tư, người gắn bó sâu nặng với ngành giáo dục Lào Cai từ những ngày gian khó có viết: “Thày đi dạy chữ bản xa/Vó câu lững thững rừng già suối reo/Chim kêu vượn hót lưng đèo/Thương đàn em nhỏ bản nghèo ngẩn ngơ”.

Bài 3: “Cõng” ánh sáng lên “rừng vầu đắng”

Người đi “gieo hạt chữ”: Bài 3: “Cõng” ánh sáng lên “rừng vầu đắng”

Anh Chảo Ông Chẳn, sinh năm 1989 ở Phìn Hồ - thôn xa nhất, cao nhất của xã Tả Phời (thành phố Lào Cai). Như “hạt mầm” nảy nơi vùng đất khó, Chảo Ông Chẳn luôn hy vọng ngày mai của đồng bào ở Tả Phời, trong đó có mình, sẽ tươi sáng hơn. Nghĩ vậy, Chảo Ông Chẳn quyết tâm trở thành thầy giáo để mang ánh sáng về cho dân bản, lấy con chữ “mở đường” xuống núi.

Bài 1: Mang yêu thương về “thung lũng sừng trâu”

Người đi “gieo hạt chữ”: Bài 1: Mang yêu thương về “thung lũng sừng trâu”

Lào Cai - vùng biên gian khó, xa xôi của Tổ quốc, nơi có biết bao thôn, bản vùng cao heo hút, nằm cheo leo giữa mây núi, sương ngàn. Ở đó vẫn còn bao bản làng bị bủa vây bởi đói nghèo, lạc hậu. Để mang ánh sáng của tri thức đến với đồng bào, nhiều thế hệ nhà giáo đã dành cả tuổi thanh xuân và nhiệt huyết để cắm trường, cắm bản, “gieo hạt chữ” lên non.

Đổi thay Hát Tình

Đổi thay Hát Tình

Gần 10 năm từ sau vụ gặt lúa chiêm 2014, tôi trở lại Hát Tình, bản người Mông mà hồi đó nhiều người ở xã Chiềng Ken (huyện Văn Bàn) quen gọi là nơi “thâm sơn cùng cốc”, bởi để vào được vùng đất này thì đường đi gian nan vô cùng, phải ngược núi cao, vượt suối sâu...

fbytzltw