Vực lại nghề trồng dâu nuôi tằm

Xác định trồng dâu nuôi tằm là nghề tiềm năng, có giá trị kinh tế cao, huyện Bảo Yên đang quyết tâm vực lại nghề theo hướng đẩy mạnh liên kết, thu hút đầu tư cho công nghiệp chế biến để phát triển bền vững.

Nghề trồng dâu nuôi tằm theo hướng hàng hóa tại xã Việt Tiến và xã Kim Sơn, huyện Bảo Yên bắt đầu manh nha, phát triển từ cuối năm 2017. Với khả năng thu hồi vốn nhanh, hiệu quả kinh tế cao, nghề trồng dâu nuôi tằm sau đó phát triển mạnh mẽ và lan rộng ra nhiều địa phương trên địa bàn huyện Bảo Yên. Thời kỳ “hoàng kim”, diện tích trồng dâu nuôi tằm đã đạt hơn 200 ha. Dâu tằm khi đó được xác định là cây trồng chủ lực trong phát triển nông nghiệp hàng hóa của huyện Bảo Yên với quy mô đạt 400 ha vào năm 2025.

Huyện Bảo Yên đang nỗ lực khôi phục nghề trồng dâu nuôi tằm.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, ngành dâu tằm tơ bị suy thoái, giá kén tằm chạm đáy nên nhiều hộ đã chặt bỏ diện tích trồng dâu, “bỏ nghề” nuôi tằm. Bước qua thời kỳ suy thoái, khoảng giữa năm 2023, ngành dâu tằm tơ đã phục hồi, giá kén tằm tăng trở lại, huyện Bảo Yên đã đưa ra nhiều giải pháp khuyến khích nông dân và doanh nghiệp khôi phục lại nghề trồng dâu nuôi tằm nhưng không ít nông dân vẫn tỏ ra thận trọng với nghề này. Đến thời điểm hiện tại, toàn huyện Bảo Yên mới phục hồi được hơn 30 ha dâu tằm.

Dautam1.jpg
Gia đình ông Nguyễn Ngọc Khoa ở thôn Bảo Ân, xã Kim Sơn kiên trì giữ nghề trồng dâu nuôi tằm.

Kiên trì giữ diện tích trồng dâu ngay cả trong thời kỳ dịch bệnh ảnh hưởng, gia đình ông Nguyễn Ngọc Khoa (thôn Bảo Ân, xã Kim Sơn) là một trong những hộ đầu tiên trở lại với nghề trồng dâu nuôi tằm. Đến nay, gia đình ông Khoa có 3 ha trồng dâu, nuôi 2 lứa tằm/tháng. Mỗi lứa, gia đình ông Khoa nuôi 5 vòng tằm, thu được khoảng 100 kg kén. Với giá kén trung bình 160 nghìn đồng/kg, mỗi lứa tằm ông Khoa thu được khoảng 16 triệu đồng, lãi 13 triệu đồng sau khi trừ hết chi phí.

DT5.jpg
Nghề trồng dâu nuôi tằm mang lại nguồn thu nhập khá cho nông dân huyện Bảo Yên.

Ông Khoa chia sẻ: Nuôi tằm không khó nhưng thường xuyên phải lên mạng để học hỏi, cải tiến kỹ thuật nuôi nhằm giảm chi phí, đạt năng suất, chất lượng kén tốt nhất. Đối với nghề nuôi tằm, vất vả nhất là trong 3 ngày tằm ăn rỗi nhưng bù lại nuôi tằm cho giá trị kinh tế cao hơn làm nông nghiệp truyền thống (trồng lúa, trồng ngô) gấp nhiều lần. Với quy mô hiện tại, mỗi tháng gia đình tôi có thể thu về khoảng 25 - 26 triệu đồng sau khi trừ các loại chi phí.

Trở lại với nghề bắt đầu từ 2 nong tằm rồi mở rộng lên 4 nong, 8 nong, anh Nguyễn Văn Việt ở thôn Tân Văn, xã Kim Sơn cũng khẳng định: Nếu giá kén ổn định như hiện tại thì trồng dâu nuôi tằm chắc chắn mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn các loại cây trồng, vật nuôi khác tại địa phương. Chúng tôi vừa làm vừa nghe ngóng thị trường, từng bước mở rộng quy mô sản xuất.

Khi ngành dâu tằm tơ phục hồi, thị trường có dấu hiệu khởi sắc, giá kén tăng cao và ổn định, không chỉ gia đình ông Khoa, anh Việt mà nhiều hộ dân khác trên địa bàn xã Kim Sơn, Việt Tiến và một số xã khác trên địa bàn huyện Bảo Yên đã từng bước khôi phục lại diện tích trồng dâu nuôi tằm. Các hộ trồng dâu nuôi tằm còn không ngừng mở rộng quy mô, xây mới nhà nuôi, áp dụng kỹ thuật để có những lứa tằm khỏe, ít bị bệnh, nâng cao chất lượng kén. Đến thời điểm hiện tại, toàn huyện Bảo Yên có khoảng 20 hộ trở lại với nghề trồng dâu nuôi tằm với diện tích trồng dâu được khôi phục hơn 30 ha.

Nói về việc khôi phục nghề trồng dâu nuôi tằm ở địa phương, bà Nhữ Thị Tâm, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Bảo Yên cho biết: Sau khi ngành dâu tằm tơ phục hồi, huyện Bảo Yên tiếp tục xác định dâu tằm là cây có giá trị kinh tế cao, nếu có thể liên kết phát triển theo chuỗi sẽ giúp nông dân nâng cao thu nhập. Huyện Bảo Yên vẫn kiên định đưa cây dâu tằm trở thành cây chủ lực, ưu tiên phát triển, mở rộng trong thời gian tới. Đến năm 2025, huyện phấn đấu phát triển và giữ ổn định khoảng 300 ha và mở rộng lên 500 ha cây dâu tằm vào năm 2030. Bên cạnh việc khuyến khích người dân khôi phục lại diện tích trồng dâu nuôi tằm, chúng tôi đã đẩy mạnh việc kết nối với các doanh nghiệp, đặc biệt là Công ty Cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái để phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm theo chuỗi liên kết bền vững. Khi có vùng trồng đủ lớn, địa phương sẽ kêu gọi, thu hút đầu tư nhà máy chế biến tơ tằm để nâng cao giá trị của ngành hàng này.

Ngành dâu tằm tơ phục hồi và phát triển ổn định là cơ sở quan trọng để huyện Bảo Yên vực dậy nghề trồng dâu nuôi tằm, kiên định với mục tiêu đưa cây trồng này trở thành cây trồng chủ lực. Bên cạnh đó, việc liên kết với Công ty Cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái giúp nông dân huyện Bảo Yên có thêm niềm tin để trở lại với nghề trồng dâu nuôi tằm.

DT6.jpg
Nhà máy ươm tơ hiện đại của Công ty Cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái.

Ông Vũ Xuân Trường, Giám đốc Công ty Cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái cho biết: Nhà máy của công ty hiện có 4 giàn máy, công suất ươm tơ đạt 2,5 tấn kén/ngày. Sản phẩm chính của công ty là tơ sợi xuất khẩu sang các thị trường Ấn Độ, Nhật Bản, EU. Bên cạnh vùng nguyên liệu tại tỉnh Yên Bái, chúng tôi cũng đang phát triển vùng nguyên liệu trồng dâu nuôi tằm tại tỉnh Lào Cai và tỉnh Hà Giang. Trong đó, chúng tôi đánh giá rất cao tiềm năng vùng nguyên liệu tỉnh Lào Cai, có thể phát triển với quy mô lớn. Công ty sẵn sàng liên kết, hỗ trợ kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm kén cho nông dân thông qua các hợp tác xã. Ngoài phát triển vùng nguyên liệu, chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát, làm việc với các ngành chức năng của tỉnh Lào Cai để nghiên cứu, xây dựng nhà máy ươm tơ tại tỉnh khi đủ các điều kiện cần thiết. Ngành dâu tằm tơ đã phục hồi mạnh mẽ nên bà con có thể yên tâm phát triển sản xuất.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường tỉnh Hoà Bình (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự tôn vinh, ghi nhận và là niềm tự hào của người Mường, động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Giữa lòng Cao nguyên đá hùng vĩ có một câu chuyện về văn hóa bản địa và hành trình vươn lên mạnh mẽ của những người phụ nữ dân tộc Mông. Từ sợi lanh truyền thống, họ đã và đang bền bỉ dệt nên sự bình đẳng, nâng tầm vị thế của mình trong cộng đồng.

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

[Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Làng nghề trống Đọi Tam ở xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là làng nghề có lịch sử phát triển hơn 1.000 năm và là làng nghề nổi tiếng với sản phẩm trống truyền thống. Ngoài việc giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo, làng nghề còn linh hoạt đổi mới để đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người tiêu dùng.

Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Sông Hồng – Hành trình di sản Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Cùng với những di tích khảo cổ, những lịch sử - văn hóa mang nhiều giá trị bên sông Hồng, đi đến những vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tham quan, trải nghiệm không gian văn hóa của nhiều làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm tuổi ven sông Hồng, tạo nên nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước của cư dân người Việt.

fb yt zl tw