VCCI đề xuất nên đánh giá lại hiệu quả việc bắt buộc lắp camera giám sát trên ô-tô vận tải

Mới đây, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có văn bản đề nghị Bộ Giao thông vận tải đánh giá lại quy định xe vận tải phải lắp camera giám sát trên xe do có nguy cơ gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp mà ít hiệu quả, nhất trong bối cảnh khó khăn hiện nay.

camera.jpg
Lắp và kiểm tra hoạt động của camera giám sát trên xe khách.

Trong văn bản góp ý với Bộ Giao thông vận tải về dự thảo Nghị định sửa đổi liên quan đến quản lý vận tải bằng ô-tô, đào tạo lái xe và dịch vụ sát hạch, một trong những nội dung đáng chú ý là đề xuất liên quan đến yêu cầu lắp camera giám sát cho các xe vận tải.

Cụ thể, theo VCCI, trước đây, tại Khoản 5 Điều 34 Nghị định 10/2020/NĐ-CP quy định đơn vị kinh doanh vận tải hành khách sử dụng xe ô-tô có sức chứa từ 9 chỗ (kể cả người lái xe) trở lên, đơn vị kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container, xe đầu kéo phải lắp camera. Quy định này có hiệu lực từ ngày 1/7/2021.

Trước đó, khảo sát với hơn 100 doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách từ 9 chỗ trở lên, kinh doanh vận tải hàng hóa (đối tượng chịu tác động trực tiếp của quy định này) ở cả ba miền bắc, trung, nam do VCCI thực hiện cho thấy, yêu cầu này sẽ tạo gánh nặng rất lớn về chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Quy định này đặc biệt tác động lớn đến các doanh nghiệp khởi sự kinh doanh, tức thời hạn hoạt động dưới 5 năm, bởi để thực hiện quy định, một ô-tô có thể phải gánh các chi phí khoảng 17 triệu đồng.

Trong đó chi trả chi phí lắp camera 5,8 triệu đồng, chi phí truyền dữ liệu là 1,2 triệu đồng, chi phí thải bỏ camera là 5 triệu đồng, chi phí để tháo dỡ camera là 5 triệu đồng (có camera trước đó nhưng không tương thích với yêu cầu truyền dẫn của quy định).

Theo ước tính của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, trước tháng 7/2021, khoảng 200 nghìn xe khách, xe đầu kéo nằm trong diện lắp camera giám sát. Như vậy, chi phí ước tính để tuân thủ riêng phần lắp camera là 1.160 tỷ đồng; chi phí truyền dẫn dữ liệu hằng tháng là 240 tỷ đồng.

VCCI đánh giá mục tiêu quản lý khi ban hành quy định này là giám sát, cảnh báo vi phạm với tài xế, đảm bảo an toàn giao thông. Tuy nhiên, khi phân tích vào từng mục tiêu, kết quả có thể sẽ khó đạt được kỳ vọng.

Lý giải cho luận điểm trên, VCCI cho rằng dù hình ảnh ghi lại là căn cứ xử lý vi phạm, việc giám sát vẫn có một số hạn chế nhất định vì dữ liệu truyền về là hình ảnh tĩnh chứ không phải là hình ảnh động như video. Do đó, trong một số trường hợp chưa phản ánh chính xác hành vi của tài xế.

Camera giám sát cũng có thể cung cấp bằng chứng để xử lý các vi phạm của hành khách trên xe, nhưng chưa có số liệu thống kê đầy đủ nào về các hành vi vi phạm trên xe là nguy cơ cao để cơ quan nhà nước buộc phải thực hiện giám sát. Còn các mục tiêu về giám sát tải trọng, hành trình của xe thì camera không có chức năng này và hiện tại quy định pháp luật đã có các công cụ khác để quản lý.

Một ô-tô có thể phải gánh các chi phí khoảng 17 triệu đồng, trong đó chi trả chi phí lắp camera 5,8 triệu đồng, chi phí truyền dữ liệu là 1,2 triệu đồng, chi phí thải bỏ camera là 5 triệu đồng, chi phí để tháo dỡ camera là 5 triệu đồng.

Nếu xét về tính pháp lý, VCCI đánh giá, quy định này chưa đủ rõ ràng để các doanh nghiệp xác định chính xác số lượng, chủng loại camera phải lắp trên xe.

Một vấn đề khác cũng được đặt ra là yếu tố hình ảnh của hành khách thuộc về quyền hình ảnh riêng tư chưa được bảo vệ một cách hợp lý, trong khi đây lại là vấn đề quan trọng mà các quốc gia trên thế giới quan tâm khi quy định về lắp camera trên ôtô vận tải hành khách.

Mặt khác, hệ thống xử lý dữ liệu hình ảnh camera mới dừng lại ở bước thử nghiệm, các sở giao thông vận tải đang phải theo dõi, chiết xuất dữ liệu trên phần mềm của đơn vị vận tải, nên công tác quản lý gặp nhiều khó khăn. Theo VCCI, điều này cho thấy từ khi có hiệu lực đến nay, công cụ quản lý bằng camera gặp nhiều khó khăn, ít hiệu quả.

Xuất phát từ thực tiễn này, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá lại một cách toàn diện về việc yêu cầu lắp camera giám sát ở trên; đồng thời, điều chỉnh nội dung này sao cho phù hợp tại dự thảo và Nghị định mới.

Theo Báo Nhân Dân

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phường Trung Tâm phát triển thương hiệu bưởi da xanh

Phường Trung Tâm phát triển thương hiệu bưởi da xanh

Bưởi da xanh đang là cây trồng mũi nhọn, góp phần nâng cao thu nhập và hình thành thương hiệu nông sản đặc trưng của phường Trung Tâm, tỉnh Lào Cai. Những năm gần đây, địa phương đẩy mạnh mở rộng diện tích, chuẩn hóa quy trình sản xuất và kết nối thị trường, tạo động lực quan trọng phát triển kinh tế nông nghiệp.

Púng Luông giữ vững thương hiệu chè Shan tuyết

Púng Luông giữ vững thương hiệu chè Shan tuyết

Tại xã Púng Luông, chè Shan tuyết từ lâu đã là sản phẩm nổi tiếng của địa phương. Khi được chứng nhận OCOP, cây chè trở thành nông sản chủ lực, tạo thương hiệu và sinh kế bền vững giúp người dân vùng cao vươn lên thoát nghèo. Để giữ vững và nâng tầm thương hiệu trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, Púng Luông đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ duy trì vùng nguyên liệu, cải tiến quy trình sản xuất đến mở rộng thị trường tiêu thụ.

GCAP – Giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn đô thị xanh tại Việt Nam

GCAP – Giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn đô thị xanh tại Việt Nam

Trong bối cảnh các đô thị nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu, việc xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động đô thị xanh được coi là kim chỉ nam, định hướng quan trọng, đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.

“Điểm nghẽn” kéo chậm tiến độ các dự án trọng điểm

“Điểm nghẽn” kéo chậm tiến độ các dự án trọng điểm

Năm 2025, Lào Cai đặt mục tiêu “tăng tốc, bứt phá”, hướng tới mục tiêu tăng trưởng GRDP 8,5% và hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Hàng loạt dự án hạ tầng chiến lược, nhất là các công trình giao thông liên vùng được coi là động lực mở ra dư địa phát triển mới sau hợp nhất. Tuy vậy, nhiều dự án trọng điểm vẫn chậm so với yêu cầu, mà “điểm nghẽn” lớn nhất là công tác giải phóng mặt bằng.

Đa dạng sinh kế, giảm nghèo bền vững cho người dân

Đa dạng sinh kế, giảm nghèo bền vững cho người dân

Những năm gần đây, nhiều địa phương trong tỉnh đã chủ động tìm hướng đi mới trong phát triển nông nghiệp, đa dạng sinh kế, tận dụng lợi thế đất đai và khí hậu để nâng cao thu nhập, hướng tới phát triển kinh tế bền vững cho người dân.

Dấu ấn giảm nghèo ở Pha Long

Dấu ấn giảm nghèo ở Pha Long

Trong những năm gần đây, xã Pha Long đã chủ động và quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo chuyển biến rõ nét trong đời sống của người dân.

Bảo Yên tháo nút thắt hạ tầng giao thông

Bảo Yên tháo nút thắt hạ tầng giao thông

Xã Bảo Yên được thành lập trên cơ sở sáp nhập các xã Yên Sơn, Lương Sơn, Xuân Thượng và thị trấn Phố Ràng, là khu vực trung tâm, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Bảo Yên cũ. Tuy nhiên những nút thắt về hạ tầng giao thông kết nối đang khiến địa phương này chưa phát huy tiềm năng, lợi thế, chưa phát huy hết vai trò là hạt nhân phát triển của vùng.

Gia nhập thị trường tín chỉ các-bon: Tìm lời giải cho bài toán khó

Sở hữu độ che phủ rừng lên tới 61,5% cùng hệ sinh thái đa dạng bậc nhất Tây Bắc, Lào Cai đang đứng trước cơ hội thu “tỷ đô” từ thị trường tín chỉ các-bon. Tuy nhiên, để biến những cánh rừng thành nguồn tài chính “xanh” bền vững, tỉnh Lào Cai phải giải quyết bài toán về hoàn thiện khung pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và thay đổi tư duy của những người đang ngày đêm bám đất, giữ rừng.

fb yt zl tw