Truy xuất nguồn gốc sản phẩm Việt vẫn 'kẹt' ở nền dữ liệu

Khi mỗi sản phẩm mang trên mình “hộ chiếu số,” doanh nghiệp không chỉ cung cấp thông tin, mà còn trao niềm tin là yếu tố mà thị trường số hiện nay coi trọng hơn cả giá cả.

ttxvn-truy-xuat-nguon-goc-nong-s.jpg
Truy xuất nguồn gốc sản xuất.

Trong bối cảnh thương mại số bùng nổ, truy xuất nguồn gốc được xem như “hộ chiếu” để hàng Việt đi xa hơn.

Nhưng bài toán chuẩn hóa hệ thống và xác thực dữ liệu vẫn là điểm nghẽn khiến doanh nghiệp khó tận dụng trọn vẹn lợi ích.

Các công nghệ tiên tiến như Blockchain, Internet of Things (IoT), RFID, dữ liệu lớn và QR code không chỉ số hóa thông tin sản phẩm mà còn biến mỗi sản phẩm trở thành một “hộ chiếu chất lượng” cho phép khách hàng, nhà phân phối và cơ quan quản lý theo dõi toàn bộ hành trình từ nguyên liệu đến tay người tiêu dùng.

Khi mỗi sản phẩm mang trên mình “hộ chiếu số,” doanh nghiệp không chỉ cung cấp thông tin, mà còn trao niềm tin là yếu tố mà thị trường số hiện nay coi trọng hơn cả giá cả.

Bà Nguyễn Thị Tình, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Vifon) cho biết, Vifon có riêng một bộ phận chuyên môn về quản lý chất lượng sản phẩm.

Đội ngũ này thực hiện công việc thường xuyên, luôn phối hợp cùng các đơn vị trong công ty, phân xưởng sản xuất để truy vết nguồn gốc sản phẩm cả nội địa lẫn xuất khẩu.

“Muốn sản phẩm tốt được đưa ra thị trường, việc truy vết nguồn gốc từ nguyên liệu đến thành phẩm hết sức quan trọng để sản phẩm phải đảm bảo sức khoẻ người tiêu dùng. Do đó, mỗi công ty cần chủ động trong xây dựng phương án truy vết nguồn gốc thực phẩm, nhất là khi hiện nay các sản phẩm giả, hàng kém chất lượng rất nhiều trên thị trường,” bà Nguyễn Thị Tình bày tỏ.

Tại Đắk Lắk, các doanh nghiệp nông sản khi gắn mã QR trên sầu riêng, cà phê hay hồ tiêu đã chứng kiến hiệu quả rõ rệt.

Ông Lê Anh Trung, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk nhấn mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc truy xuất nguồn gốc không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn mở ra cơ hội lớn cho nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu.

“Người tiêu dùng ngày càng thông minh và có xu hướng lựa chọn những sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng. Việc chứng minh xuất xứ chính là chìa khóa mở ra cánh cửa thành công. Điều này không chỉ nâng cao giá trị thương hiệu mà còn củng cố mối quan hệ với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu nông sản sang các thị trường nước ngoài,” ông Lê Anh Trung cho hay.

Như vậy, truy xuất nguồn gốc không chỉ là yêu cầu nội bộ hay pháp lý, mà còn là lợi thế cạnh tranh chiến lược trong thương mại quốc tế. Sản phẩm minh bạch về nguồn gốc trở thành “sứ giả” thương hiệu Việt ra thế giới.

Theo bà Trần Thanh Bình, Trưởng phòng Xuất xứ hàng hoá- Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay: Việt Nam hiện tham gia 19 Hiệp định thương mại tự do (FTA); trong đó 17 FTA đã có hiệu lực và 2 FTA mới đang được khởi động đàm phán.

Để tận dụng tốt các ưu đãi thuế quan, doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ quy định về xuất xứ và truy xuất nguồn gốc hàng hoá, yếu tố được xem như “tấm hộ chiếu” cho sản phẩm Việt vươn ra toàn cầu.

Đáng lưu ý, việc quản lý hàng hóa được chia làm hai mảng là lưu thông trong nước, tập trung vào định danh và truy xuất nguồn gốc và xuất nhập khẩu bắt buộc xác định xuất xứ. Hai lĩnh vực này được phối hợp chặt chẽ nhằm vừa bảo vệ người tiêu dùng trong nước, vừa đảm bảo tuân thủ cam kết quốc tế.

Sản phẩm của Tổng Công ty cao su Đồng Nai thực hiện tiêu chuẩn EUDR của châu Âu, có thể quét mã để định vị được toàn chuỗi sản xuất của sản phẩm, từ vườn cây đến nhà máy chế biến. (Ảnh: Hồng Nhung/TTXVN)
Sản phẩm của Tổng Công ty cao su Đồng Nai thực hiện tiêu chuẩn EUDR của châu Âu, có thể quét mã để định vị được toàn chuỗi sản xuất của sản phẩm, từ vườn cây đến nhà máy chế biến. (Ảnh: Hồng Nhung/TTXVN)

Từ góc nhìn đó, truy xuất nguồn gốc hàng hóa không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là nơi quản trị hiện đại, nơi dữ liệu, pháp lý và trách nhiệm cùng gặp nhau.

Ông Nguyễn Văn Thành, Trưởng phòng Chính sách, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) cho hay Việt Nam đang là thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh thứ ba Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia và Thái Lan.

Năm 2023, doanh thu thương mại điện tử bán lẻ trực tuyến đạt khoảng 20,5 tỷ USD, năm 2024 là 25 tỷ USD và dự kiến năm 2025 sẽ cán mốc 31,5 tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng trung bình 25,5%/năm.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Thành, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay chính là thiếu hệ thống bảo chứng thông tin hàng hóa.

Người tiêu dùng nhìn thấy mã QR, nhưng không chắc dữ liệu được xác thực; doanh nghiệp chân chính bị cạnh tranh không lành mạnh bởi hàng kém chất lượng. Vì thế, truy xuất nguồn gốc không chỉ là công cụ kỹ thuật mà là nền tảng đạo đức của thương mại điện tử.

Do vậy, giải pháp cốt lõi là xây dựng một hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia thống nhất. Hiện nay, mỗi bộ, ngành, địa phương, thậm chí doanh nghiệp đều có hệ thống riêng; tiêu chí, định dạng dữ liệu khác nhau, khiến dữ liệu không thể liên thông, “mạnh ai nấy làm.”

Một số doanh nghiệp tự tạo mã truy xuất nhưng không có sự xác thực độc lập. Khi xảy ra tranh chấp, cơ quan quản lý không có cơ sở để đối chiếu thông tin, người tiêu dùng chịu thiệt, còn niềm tin thị trường bị xói mòn.

Vì vậy, cần liên thông dữ liệu với cơ sở dữ liệu định danh của Bộ Công an và các hệ thống quản lý ngành hàng của Bộ Công Thương để mọi giao dịch, sản phẩm đều gắn với một chủ thể pháp lý có thật.

Khi đó, người bán không thể ẩn danh, người mua không bị lừa và cơ quan quản lý có thể kiểm tra, xử lý vi phạm chính xác, nhanh chóng.

“Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà là bước tiến chiến lược để xây dựng văn hóa niềm tin trên môi trường số, điều kiện tiên quyết cho một nền thương mại điện tử phát triển xanh, minh bạch và bền vững”, ông Nguyễn Văn Thành khẳng định.

Trong bối cảnh Chính phủ đẩy mạnh phát triển kinh tế số, việc thiết lập một hệ thống truy xuất nguồn gốc thống nhất trên phạm vi quốc gia trở thành bước đi then chốt, khép lại tình trạng phân tán, manh mún và thiếu kết nối dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương.

Khi dữ liệu trở thành ngôn ngữ chung, thương mại điện tử không chỉ phát triển nhanh mà còn minh bạch, công bằng và có trách nhiệm hơn. Đây chính là nền tảng để các sản phẩm Việt tự tin hội nhập thị trường toàn cầu, đồng thời nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng và đối tác quốc tế./.

vietnamplus.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Hành trình trả lại màu xanh cho rừng

Hành trình trả lại màu xanh cho rừng

Những cánh rừng xanh mướt từng oằn mình dưới ngọn lửa vì sự vô tình của con người, trong phút chốc biến thành tro bụi. Nhưng cũng ở nơi ấy, những đôi bàn tay từng làm tổn thương rừng đang cần mẫn vun trồng, chăm sóc từng mầm cây, như một cách “trả nợ” thiên nhiên.

Lào Cai: Ngành Thuế và 4 chi nhánh Agribank ký kết hợp tác về cơ chế xóa bỏ thuế khoán

Lào Cai: Ngành Thuế và 4 chi nhánh Agribank ký kết hợp tác về cơ chế xóa bỏ thuế khoán

Chiều 3/12, tại trụ sở Agribank Chi nhánh Yên Bái, Thuế tỉnh Lào Cai cùng bốn chi nhánh Agribank trên địa bàn gồm: Chi nhánh Yên Bái, Bắc Yên Bái, Lào Cai và Lào Cai II đã tổ chức Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác nhằm triển khai cơ chế xóa bỏ thuế khoán, tăng cường minh bạch và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng - thuế.

Khơi thông nguồn vốn tín dụng trong xây dựng nông thôn mới

Khơi thông nguồn vốn tín dụng trong xây dựng nông thôn mới

Sau hợp nhất, toàn tỉnh có 37 xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), 1 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 387 thôn được công nhận đạt chuẩn NTM, 533 thôn được công nhận NTM kiểu mẫu. Đây là những con số minh chứng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và kết quả huy động các nguồn lực để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, trong đó vốn tín dụng đóng vai trò quan trọng.

Hiệu quả sản xuất vụ đông ở Bảo Hà

Hiệu quả sản xuất vụ đông ở Bảo Hà

Với lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu, ngay từ đầu vụ, xã Bảo Hà đã xây dựng kế hoạch sản xuất, bố trí diện tích trồng cây vụ đông tại các thôn thuận lợi về nước tưới và tiêu thụ. Thời điểm này, trên các cánh đồng, những luống rau xanh tốt, dưa chuột, cà chua đang vươn giàn... báo hiệu vụ đông thắng lợi của nông dân Bảo Hà.

Hiệu quả mô hình trồng dâu nuôi tằm trên đất đồi ở xã Bảo Hà

Hiệu quả mô hình trồng dâu nuôi tằm trên đất đồi ở xã Bảo Hà

Những năm gần đây, xã Bảo Hà chú trọng tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tạo sinh kế bền vững và góp phần giảm nghèo bền vững. Gia đình chị Nguyễn Thị Sinh ở thôn Khoai 3 là điển hình tiêu biểu với mô hình trồng dâu trên đất đồi kết hợp nuôi tằm, mang lại thu nhập ổn định.

Mùa trái ngọt ven sông

Mùa trái ngọt ven sông

Giữa những ngày cuối năm, khi những dòng sông dần hiền hòa trở lại sau mùa mưa, cũng là lúc những vườn cam ven sông khoe sắc ở thời điểm rực rỡ nhất. Chúng tôi tìm đến phường Văn Phú - nơi chỉ cách trung tâm hành chính tỉnh vài phút di chuyển để khám phá vườn cam đang trở thành điểm đến trải nghiệm hấp dẫn với nhiều du khách.

Kinh tế rừng thay đổi bộ mặt nông thôn Lào Cai

Kinh tế rừng thay đổi bộ mặt nông thôn Lào Cai

Phát huy lợi thế đất đồi rừng, nông dân tỉnh Lào Cai phấn đấu mỗi năm trồng mới 15.000 ha cây lâm nghiệp trở lên. Trên cơ sở đó, nhiều xã phấn đấu đến năm 2030 trở thành xã phát triển về lâm nghiệp của tỉnh.

Châu Quế quyết tâm giảm nghèo

Châu Quế quyết tâm giảm nghèo

Xã Châu Quế có trên 57% là đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao, trình độ nhận thức của người dân không đồng đều. Với quyết tâm cao, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân xã Châu Quế đã phát huy tinh thần đoàn kết, triển khai nhiều giải pháp giảm nghèo bền vững.

Ưu tiên thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp

Ưu tiên thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp

Trong quá trình phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, tỉnh Lào Cai luôn ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp (KCN) đồng bộ, cải thiện môi trường đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Những nỗ lực ấy đang giúp tỉnh nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút ngày càng nhiều dự án phù hợp với định hướng phát triển dài hạn.

fb yt zl tw