Tạo dấu ấn xuất khẩu cho chè Việt Nam

Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, hiện Việt Nam là nước sản xuất và xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới. Tuy nhiên, giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ bằng 65% giá bình quân của các nước hàng đầu về xuất khẩu chè và bằng 55% giá chè xuất khẩu bình quân của Ấn Độ và Sri Lanka. Vì thế, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo ra dấu ấn mới trong xuất khẩu đang là thách thức đối với ngành chè Việt Nam.

2.jpg
Du khách trải nghiệm hái chè Shan tuyết tại xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, Yên Bái.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, 10 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè của Việt Nam đạt 120,31 nghìn tấn, trị giá 211,93 triệu USD, tăng 28,3% về lượng và tăng 30,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Giá xuất khẩu chè bình quân trong 10 tháng năm 2024 đạt 1.762 USD/tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2023.

Tiềm năng chè Việt Nam

Hiện nay, chè Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, Pakistan là thị trường xuất khẩu lớn nhất. 10 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè sang thị trường này chiếm tới 34,7% tổng lượng và 41,2% tổng kim ngạch xuất khẩu chè cả nước. Tiếp đến là thị trường Đài Loan (Trung Quốc) chiếm 10,3% về lượng và 10,1% về kim ngạch.

Hiện nay, chè Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, Pakistan là thị trường xuất khẩu lớn nhất.

Đáng chú ý, 10 tháng đầu năm 2024, tỷ trọng xuất khẩu chè sang Trung Quốc tăng mạnh, chiếm 9,5% tổng lượng và 7,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam (cùng kỳ năm 2023 chiếm 3,5% tổng lượng và 4,7% tổng kim ngạch).

Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam Hoàng Vĩnh Long cho biết: Ngành chè Việt Nam đã và đang phát triển theo hướng bền vững, áp dụng sản xuất theo các chứng nhận quốc tế. Điểm mạnh của Việt Nam là thổ nhưỡng khí hậu rất phù hợp sự phát triển của cây chè với nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao như: Thái Nguyên, Sơn La, Lâm Đồng. Đặc biệt, Việt Nam còn có gần 20.000 héc-ta chè shan rừng. Nhiều vùng chè shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi cho chất lượng cao như Suối Giàng (Yên Bái), Hà Giang, Tà Xùa (Sơn La)...

Theo đánh giá của các chuyên gia và người tiêu dùng quốc tế, chất lượng sản phẩm chè Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào trên thế giới. Đặc biệt, chè xanh Việt Nam được rất nhiều khách hàng đánh giá cao như chè xanh Mộc Châu, Thái Nguyên, Suối Giàng, Hà Giang, Ôlong Lâm Đồng, các sản phẩm chè ướp hương sen, nhài...

Tại Thái Nguyên, toàn tỉnh hiện có 17.824 héc-ta chè giống mới, chiếm gần 80% diện tích; gần 2.500 héc-ta chè được cấp chứng nhận VietGAP, hàng trăm héc-ta chè được sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ. Hay xã vùng sâu Bản Liền, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai có hơn 300 hộ trồng chè shan tuyết. Nhiều hộ đã thoát nghèo và đang làm giàu từ chuyển đổi sang trồng chè shan tuyết, làm chè hữu cơ xuất khẩu sang các nước Pháp, Ðức, Hà Lan…

Mới đây, địa phương có thêm sản phẩm chè Hồng Ðào xuất khẩu sang thị trường Mỹ với giá cao, mở ra hướng đi mới cho người trồng chè. Tại tỉnh Tuyên Quang, Công ty cổ phần Chè Mỹ Lâm sản xuất các sản phẩm chè bảo đảm an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Liên minh châu Âu (EU).

Công nghệ sản xuất của công ty đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và quản lý của các tập đoàn lớn trên thế giới. Sản lượng sản xuất của công ty đạt 2.050 đến 2.300 tấn/năm.

“Có một điều đáng tiếc là các sản phẩm nổi tiếng khi xuất khẩu ra nước ngoài đến tay người tiêu dùng phần lớn lại không mang thương hiệu chè Việt Nam. Nguyên nhân là do phần lớn chè vẫn xuất khẩu thô, chưa có thương hiệu mạnh, trong khi hoạt động quảng bá cho chè Việt Nam cũng còn rất hạn chế” - ông Long nhấn mạnh.

Gia tăng sản phẩm chế biến sâu

Để nâng cao chất lượng, giá trị cho ngành chè Việt Nam, Phó Cục trưởng Trồng trọt Nguyễn Quốc Mạnh cho biết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có định hướng đến năm 2030, diện tích chè được chứng nhận sạch, an toàn (hữu cơ, GAP, VietGAP và tương đương) đạt hơn 70%; ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tưới nước, bón phân, thu hái, bảo quản, chế biến...

Diện tích chè hữu cơ cả nước đến năm 2030 đạt khoảng 11.000 héc-ta, diện tích chè cho sản phẩm đạt 10.000 héc-ta, sản lượng đạt khoảng 70.000 tấn, tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái và Thái Nguyên. Diện tích chè đặc sản cả nước đạt khoảng 34,5 nghìn héc-ta; diện tích cho sản phẩm đạt 32.000 héc-ta, sản lượng đạt khoảng 290.000 tấn.

Trong đó, cần bảo tồn, khai thác và phát triển các vùng chè shan tuyết phục vụ nguyên liệu cho sản xuất chè hữu cơ, chè đặc sản cũng như các sản phẩm chè chế biến có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, như: Vùng chè shan tuyết Hà Giang với diện tích hơn 7.000 héc-ta; vùng trồng chè shan tuyết Suối Giàng (Yên Bái) với diện tích khoảng 400 héc-ta, vùng chè shan tuyết Tà Xùa (Sơn La) khoảng 200 héc-ta…

Cùng với sản xuất, giai đoạn từ nay đến năm 2030, ngành chè cần tập trung phát triển các mặt hàng chè mới có giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, sản phẩm tinh chế cao cấp, được sử dụng trong các ngành thực phẩm và phi thực phẩm, dược phẩm hoặc mỹ phẩm; tiếp tục đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm chè.

Về thị trường xuất khẩu, dự báo sản lượng xuất khẩu chè của Việt Nam đến năm 2030 đạt 156.000 tấn, tăng trung bình 0,83%/năm, chiếm khoảng 80% sản lượng chè sản xuất ra. Các thị trường chính của sản phẩm chè Việt Nam vẫn là Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia,… và chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao sang thị trường EU…

Hiện nay, tỷ lệ xuất khẩu chè đen có xu hướng giảm dần. Năm 2022, xuất khẩu chè đen chiếm tỷ lệ 43% và dự báo đến năm 2030, giảm xuống còn 41%; xuất khẩu chè xanh đạt tỷ lệ 54% vào năm 2022 và dự báo năm 2030 tăng lên 56%. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu chè nên nắm bắt thông tin và xu hướng của từng thị trường để có cách thức thâm nhập nhanh và hiệu quả.

Theo nhandan.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

INFOGRAPHIC: Phương án hỗ trợ, khắc phục thiệt hại sau hoàn lưu bão số 10/2025

INFOGRAPHIC: Phương án hỗ trợ, khắc phục thiệt hại sau hoàn lưu bão số 10/2025

Do ảnh hưởng hoàn lưu bão số 10 (Bualoi), từ đêm 28/9 đến ngày 01/10/2025, trên địa bàn tỉnh Lào Cai xảy ra mưa lũ diện rộng gây lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng, thiệt hại lớn về người, hạ tầng, sản xuất và đời sống. Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường ban hành Phương án hỗ trợ, khắc phục thiệt hại, ổn định đời sống, phục hồi kinh tế nông nghiệp sau ảnh hưởng của cơn bão.

Chế Tạo chủ động giữ rừng bền vững

Chế Tạo chủ động giữ rừng bền vững

Xã Chế Tạo có diện tích rừng trên 19.300 ha (chiếm trên 82% tổng diện tích tự nhiên), với địa hình hiểm trở, khí hậu khô hanh vào mùa khô khiến nguy cơ cháy rừng luôn tiềm ẩn. Trước thực tế đó, xã đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm giữ “lá phổi xanh” của địa phương.

Nậm Có chủ động bảo vệ đàn gia súc

Nậm Có chủ động bảo vệ đàn gia súc

Trước đây, do tập quán thả rông, mỗi khi mùa đông, nhiều gia súc ở vùng cao chết rét, gây thiệt hại kinh tế cho người dân. Tuy nhiên, vài năm gần đây, nhận thức của người dân Nậm Có đã thay đổi rõ rệt: từ bị động sang chủ động, từ “phó mặc cho trời” sang “chống rét như chống giặc”, giúp bảo vệ hiệu quả đàn gia súc trong mùa đông giá lạnh.

Lào Cai tăng cường quản lý thuế trên lĩnh vực thương mại điện tử

Lào Cai tăng cường quản lý thuế trên lĩnh vực thương mại điện tử

Thương mại điện tử đang bùng nổ cả về quy mô lẫn doanh số, điều này đang đặt ra vấn đề về quản lý, đặc biệt là quản lý thuế. Xuất phát từ thực tế đó, Thuế Lào Cai đang chủ động, tích cực triển khai các biện pháp quản lý thuế trên lĩnh vực thương mại điện tử. Bước đầu đã có kết quả đáng ghi nhận.

Ưu tiên sớm đầu tư tuyến trục giao thông chiến lược Sa Pa - Y Tý

Ưu tiên sớm đầu tư tuyến trục giao thông chiến lược Sa Pa - Y Tý

Tuyến giao thông kết nối từ Sa Pa sang Y Tý (Tỉnh lộ 155) giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy liên kết du lịch vùng và tạo động lực phát triển kinh tế cho các địa phương. Tuy nhiên, nhiều năm qua, tuyến đường này chưa được đầu tư sửa chữa, nâng cấp; cộng với tác động của mưa lũ, hạ tầng hiện đã xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến giao thương và đời sống kinh tế của người dân.

Đảm bảo an toàn lao động trên công trường thủy điện Si Ma Cai

Đảm bảo an toàn lao động trên công trường thủy điện Si Ma Cai

Dự án thủy điện Si Ma Cai nằm ở thượng nguồn sông Chảy, nơi có địa hình, địa chất phức tạp. Sau thời gian phải tạm dừng thi công do mưa lũ, công trường đã khởi động trở lại. Đơn vị thi công tổ chức nhiều mũi thi công vừa đảm bảo an toàn lao động, vừa đáp ứng yêu cầu bù lại tiến độ gián đoạn trước đó, phấn đấu vận hành nhà máy vào quý I năm 2026.

Phát huy tiềm năng "kinh tế bạc" ở Lào Cai

Phát huy tiềm năng "kinh tế bạc" ở Lào Cai

Lào Cai hiện có trên 186.000 người cao tuổi - lực lượng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Thời gian qua, người cao tuổi trong tỉnh đã tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh với tinh thần “tuổi cao chí càng cao”, trở thành nguồn lực quan trọng cần được phát huy mạnh mẽ trong quá trình phát triển "kinh tế bạc" ở địa phương.

Điểm tựa của hội viên nông dân

Điểm tựa của hội viên nông dân

Với phương châm “đồng hành, tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ hội viên nông dân bằng nhiều giải pháp cụ thể”, Hội Nông dân xã Mường Khương đã thực sự trở thành điểm tựa giúp hội viên phát triển kinh tế và góp phần xây dựng địa phương ngày càng phát triển.

"Cây vàng xanh" giúp nông dân Lào Cai làm giàu bền vững

"Cây vàng xanh" giúp nông dân Lào Cai làm giàu bền vững

Quế được bà con các dân tộc các tỉnh Tây Bắc ví như "cây vàng xanh", bởi không chỉ giúp người dân thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu bền vững. Vùng đất Viễn Sơn, thuộc huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái cũ, nay là xã Xuân Ái, tỉnh Lào Cai được xem như nơi xuất phát của nghề trống quế.

fb yt zl tw