Tái chế bao bì: Lời giải kép cho môi trường và uy tín doanh nghiệp đồ uống

Việc tái chế bao bì đồ uống không chỉ là giải pháp tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải, cải thiện môi trường, mà còn góp phần cung cấp nguyên liệu tái chế cho hoạt động sản xuất mới.

tai-che.jpg
Cần thúc đẩy tái chế bao bì đồ uống.

Nhận định ngành đồ uống hiện là một trong những lĩnh vực phát sinh khối lượng bao bì lớn nhất (từ chai nhựa, lon nhôm đến hộp giấy nhiều lớp), nhiều chuyên gia, cơ quan quản lý và doanh nghiệp cho rằng nếu không được thu gom và tái chế hiệu quả, lượng rác thải này sẽ gây áp lực nặng nề lên hệ thống quản lý chất thải và môi trường.

Vì vậy, trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh kinh tế tuần hoàn, việc thúc đẩy tái chế bao bì đồ uống không chỉ là giải pháp tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải, mà còn góp phần cung cấp nguyên liệu tái chế cho hoạt động sản xuất mới, tạo cơ hội nâng cao uy tín và tính bền vững của doanh nghiệp.

Chính sách đang từng bước đi vào thực tiễn

Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), ông Hồ Kiên Trung, cho biết để cải thiện tình trạng ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm chất thải nhựa, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng.

Từ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, năm 2014 đến năm 2020, trách nhiệm thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ đã được quy định rõ ràng, cụ thể hóa qua cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.

“Đây là công cụ hiệu quả để thúc đẩy các doanh nghiệp ngành đồ uống chủ động tham gia quản lý vòng đời sản phẩm”, ông Trung nhấn mạnh.

Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã đánh dấu bước tiến quan trọng khi quy định rõ ràng và toàn diện hơn về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Doanh nghiệp có nghĩa vụ tái chế theo tỷ lệ, quy cách bắt buộc đối với các sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế; đồng thời phải thực hiện trách nhiệm xử lý với các sản phẩm, bao bì khó tái chế hoặc chứa chất độc hại.

Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, Nghị định số 05/2025/NĐ-CP. Về phía cơ quan quản lý, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT và Thông tư số 07/2025/TT-BTNMT quy định chi tiết. Các văn bản này đã cơ bản hoàn thiện hành lang pháp lý để thực thi quy định về EPR.

“Có thể khẳng định chính sách EPR đã và đang từng bước đi vào thực tiễn, góp phần thúc đẩy hoạt động tái chế, xử lý chất thải, trong đó có bao bì đồ uống theo hướng ngày càng hiệu quả và bền vững”, ông Trung nói.

Đại diện doanh nghiệp, bà Chu Thị Vân Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam, cho biết năm 2023, cơ quan chức năng đã khảo sát nhanh nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý triển khai EPR. Kết quả cho thấy trên 80% doanh nghiệp thừa nhận gặp khó khăn trong giai đoạn đầu, chủ yếu liên quan đến chi phí và khó tìm đối tác tái chế phù hợp.

Thế nhưng, đến giai đoạn 2024-2025, phần lớn doanh nghiệp đã nắm rõ quy định và tham gia các khóa tập huấn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Về hình thức thực hiện nghĩa vụ, bà Vân Anh cho hay khoảng 80% doanh nghiệp, chủ yếu là nhỏ và vừa, lựa chọn đóng quỹ; 20% kết hợp quỹ và sáng kiến nội bộ; gần 10% ủy quyền cho đơn vị tái chế. “Điều này cho thấy doanh nghiệp không chỉ tuân thủ EPR mà còn chủ động tìm mô hình phù hợp với năng lực và quy mô hoạt động của mình”, bà Vân Anh chia sẻ.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tuy vậy, thực tế trong thời gian qua cho thấy khó khăn trong việc triển khai vẫn còn hiện hữu. Trong đó, nhiều loại bao bì như thủy tinh, nhôm, hộp giấy nhiều lớp chưa có hệ thống tái chế hiệu quả. Trong khi, Việt Nam hiện cũng chưa có nhà máy tái chế nhôm từ lon thành nhôm cuộn để quay vòng sản xuất, khiến chi phí cao và hạn chế tính toàn diện.

Cần cơ chế, lộ trình tái chế phù hợp

Trước thực tế trên, bà Chu Thị Vân Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA) kiến nghị cần có chính sách khuyến khích sử dụng bao bì nhựa tái chế (rPET); chi phí EPR phải được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp khi quyết toán thuế và bổ sung chính sách cải thiện cơ sở hạ tầng tái chế.

Cùng với đó, cần có lộ trình phù hợp khi điều chỉnh tỷ lệ tái chế bắt buộc.

Đại diện VBA cũng kiến nghị cần chú trọng vào đầu tư hạ tầng và công nghệ. Theo đó, một phần Quỹ EPR nên được dành cho phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ tái chế, nhằm giúp nâng cao hiệu quả thu gom và xử lý; ưu đãi doanh nghiệp tái chế kép. Nghĩa là những doanh nghiệp vừa tham gia thu gom, tái chế, vừa sử dụng bao bì tái chế nên được miễn trừ một phần trách nhiệm thu gom độc lập, khuyến khích tích hợp hoạt động vào chuỗi giá trị.

Quan trọng hơn, để quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đi vào thực chất, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, lực lượng thu gom và tái chế, người tiêu dùng và truyền thông.

“Nếu có sự đồng hành của các bên, chúng ta hoàn toàn có thể biến EPR thành động lực thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu ô nhiễm, nâng cao uy tín và tính bền vững của doanh nghiệp ngành đồ uống”, bà Vân Anh nói.

Tiến sỹ Hồ Quốc Thông, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế ứng dụng và Chính sách (Viện Kinh tế môi trường Đông Nam Á, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh), cũng đề xuất một số giải pháp thực hiện một hệ thống công nhận thực hành xanh bằng cách tán thưởng như là một động viên để khuyến khích và cải thiện nỗ lực tái chế giữa các nhà sản xuất và nhà bán lẻ.

Cùng với đó, Chính phủ cần thúc đẩy và hỗ trợ ngành công nghiệp sử dụng vật liệu tái chế trong nước (ví dụ trợ cấp cho tái chế); xây dựng điểm thu gom vật liệu tái chế tập trung; quy định tỷ lệ bắt buộc về nguyên liệu tái chế để sản xuất một số sản phẩm; giám sát và thực thi chính sách có hiệu quả…

Để đảm bảo việc triển khai thực thi EPR hiệu quả, đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết cơ quan này hiện đang trong quá trình tham mưu xây dựng một Nghị định riêng về EPR để trình Chính phủ ban hành, qua đó hoàn thiện hành lang pháp lý ngày càng vững chắc, minh bạch, khả thi và phù hợp với yêu cầu thực tiễn quản lý môi trường trong giai đoạn mới.

vietnamplus.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Rừng nghiến cổ thụ Sín Chải ẩn mình giữa đại ngàn

Rừng nghiến cổ thụ Sín Chải ẩn mình giữa đại ngàn

Rừng nghiến Sín Chải, xã Mường Khương được ví như "kho vàng xanh" ẩn mình giữa đại ngàn, là di sản thiên nhiên vô giá. Khu rừng không chỉ có giá trị về mặt lâm nghiệp, đa dạng sinh học mà còn là niềm tự hào, biểu tượng cho nỗ lực gìn giữ và bảo vệ của cộng đồng người Mông nơi đây.

Lòng dân rộng mở những tuyến đường

Lòng dân rộng mở những tuyến đường

Ở xã Mường Bo, những tuyến đường bê tông nối liền các thôn không chỉ được làm nên từ xi măng, cát sỏi, mà còn bằng sự đồng lòng hiến đất, góp công của Nhân dân. Mỗi mét đất vườn, mỗi ngày công chung sức là minh chứng cho tinh thần “ý Đảng hợp lòng dân”, viết nên câu chuyện đổi thay nơi vùng quê cách mạng.

Khó khăn trong tuyển dụng lao động tại các doanh nghiệp

Khó khăn trong tuyển dụng lao động tại các doanh nghiệp

Nhiều doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh đang khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, nguyên nhân do dịch chuyển từ lao động sản xuất sang ngành thương mại dịch vụ; do chưa chăm chỉ lao động... Vấn đề đặt ra là phải làm tốt hơn công tác hướng nghiệp, đặc biệt là các cơ sở sản xuất phải thay đổi công nghệ.

“Cầu nối” đưa vốn chính sách đến với hộ nghèo

“Cầu nối” đưa vốn chính sách đến với hộ nghèo

Từ hai chương trình tín dụng cho vay hộ nghèo, giải quyết việc làm ban đầu, hiện Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đã ủy thác 22 chương trình tín dụng chính sách. Mạng lưới làm công tác ủy thác đã phủ rộng khắp 100% các thôn, bản trong toàn tỉnh. Đến nay, dư nợ ủy thác qua các tổ chức hội, đoàn thể đạt trên 11.241 tỷ đồng, 1.108.650 lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác được vay vốn ưu đãi.

Lợi ích kinh tế từ canh tác rau đa tầng

Lợi ích kinh tế từ canh tác rau đa tầng

Xây dựng hệ thống giàn bê tông kiên cố, trang bị hệ thống tưới tự động để canh tác các loại rau quả leo giàn, dưới đất trồng thêm rau ngắn ngày, rau gia vị, đó là cách mà nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh áp dụng để gia tăng giá trị kinh tế từ canh tác rau màu. Mô hình này hiện được nhân rộng ở nhiều địa phương.

Nghĩa Tâm phục hồi vùng cây ăn quả có múi theo hướng bền vững

Nghĩa Tâm phục hồi vùng cây ăn quả có múi theo hướng bền vững

Từng là “thủ phủ cam” của huyện Văn Chấn (cũ), Nghĩa Tâm đã trải qua giai đoạn khó khăn khi dịch bệnh và đất thoái hóa khiến hàng loạt vườn cam chết trắng. Hôm nay, nhờ sự thay đổi cách làm của nông dân cùng sự đồng hành chính quyền, sự hỗ trợ của hợp tác xã vùng cây có múi nơi đây đang hồi sinh theo hướng bền vững.

Gắn lợi ích thủy điện với bảo vệ môi trường và an sinh xã hội

Gắn lợi ích thủy điện với bảo vệ môi trường và an sinh xã hội

Nhà máy Thủy điện Bắc Hà, tại xã Bảo Nhai có công suất 90 MW, là công trình lớn thứ 2 của tỉnh về khai thác tiềm năng thủy điện. Trong những năm qua, thủy điện không chỉ đóng góp trung bình gần 380 triệu kWh điện/năm cho hệ thống điện quốc gia mà còn được địa phương ghi nhận là đơn vị thực hiện nghiêm túc công tác bảo vệ môi trường, tích cực tham gia an sinh xã hội trên địa bàn.

fb yt zl tw