Nghìn năm Rồng Việt

Bước ra từ truyền thuyết, “Thăng Long” xưa dường như không chỉ là tên gọi gắn liền với vùng đất kinh kỳ xưa mà còn gắn liền với một lý tưởng, một giấc mơ đầy thực tại của những vị vua khởi dựng nền độc lập tự chủ đầu tiên của dân tộc.

Bước ra từ truyền thuyết, “Thăng Long” xưa dường như không chỉ là tên gọi gắn liền với vùng đất kinh kỳ xưa mà còn gắn liền với một lý tưởng, một giấc mơ đầy thực tại của những vị vua khởi dựng nền độc lập tự chủ đầu tiên của dân tộc. Tên gọi đó cũng gắn liền với hình tượng rồng, mà theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc, hình tượng này ở mỗi thời đại lại khoác lên mình những ngữ nghĩa khác nhau, cộng hưởng vào đó những lý tưởng, ý hướng đầy giá trị nhân sinh.

Từ sự gây dựng của nhà Lý

Ngay từ buổi đầu dựng nước, hình tượng con rồng - vốn đã tồn tại trong văn hoá Trung Hoa như một biểu tượng về Thiên tử - con trời đã toả lan ảnh hưởng của mình sang hầu hết những nước khác trong hệ văn hoá đồng văn để vương triều Việt cũng tiếp nhận nó như một sự thất yếu. Ấy nhưng cũng ngay từ buổi đầu dựng nước đó, biểu tượng rồng được các vua Lý gây dựng nên, đã khác biệt hoàn toàn với nguyên mẫu.

Biểu tượng những con rồng Lý được ra đời, như hiên ngang ngạo nghễ đạp mây, rẽ gió bay lên. Chúng là sự tiếp thu kết hợp đạt đến độ hoàn hảo giữa con rồng bay thời Đường và hình tượng rắn Naga trong văn hoá Chăm, rồng Đại Việt cho dù ở tư thế nào cũng như vươn mình lên với những uốn khúc hình sin căng sức bật cùng một chiếc mào lớn đại tượng hình lá đề - biểu tượng Phật giáo lập nên vị thế cho một Thăng Long đầy hào khí.

... đến tính chất tự chủ nhà Trần

Có thể nói cái hào khí buổi đầu đó đã tiếp sức, hun đúc cho sự phát triển hình tượng này suốt các triều đại phong kiến độc lập tự chủ sau đó. Sau những hào quang rực rỡ của nhà Lý, là một hào khí Đông A của nhà Trần với những con người đi vào lịch sử dân tộc, Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập nên dòng Thiền Trúc Lâm, rồi khí phách của Đại vương Trần Quốc Tuấn ba lần đại phá quân Nguyên Mông…

anh-bai-rong-viet-4-985.jpg

Phải chăng cái hào khí thời đại đó cũng khiến cho hình tượng con rồng cũng ít nhiều thay đổi. Cái hiền hòa trong cái nhịp điệu đều đặn của hình tượng rồng Lý đã chuyển mình lớn mạnh hơn linh hoạt hơn trong hình tượng rồng Trần. Những khúc thân rồng dẫu vẫn uốn khúc hình sin nhưng những khúc thân to lớn đã vận động đa chiều hơn. Dẫu rằng, rồng chỉ là một hình ảnh biểu tượng được tạo dựng, nhưng rõ ràng ý thức của một triều đại đã được thiết lập vào gửi gắm và đó nhiều hơn là một biểu tượng thông thường. Vậy nên, con rồng Trần tính chất tự chủ đậm chất quân chủ với Nho giáo làm rường cột mà vẫn giữ được tinh thần Phật giáo đáng tự hào.

Đến nghệ thuật thời Lê Sơ, dẫu nhà Lê phải oằn mình để khôi phục đất nước sau sự tàn phá 20 năm của nhà Minh, nhưng niềm tự hào, tự tôn dân tộc đã luôn được hiện diện trên những đường nét của nghệ thuật cung đình. Trên tấm bia ở Vĩnh Lăng, người ta một lần nữa nhìn thấy dáng nét của những con rồng thời Lý như được quay trở lại trong khuôn hình nửa chiếc lá đề và chiếc mào rất đặc trưng. Dường như ý hướng về việc dựng nên một xã hội thịnh trị như thời đại Lý -Trần đã được ẩn tàng trong thông điệp biểu tượng này. Nhưng bên cạnh đó, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, những con rồng được chạm khắc ở tư thế chính diện hoặc hai phần ba.

Những biểu tượng này không phải là sáng tạo gì mới của người Việt mà chỉ là sự tiếp thu một cách chọn lọc từ nghệ thuật Trung Hoa. Ấy nhưng, những con rồng ấy lại rất Việt bởi đã tiết chế bớt hung tợn, dữ dằn để điềm hoà, uy nghiêm như ứng xử của người Việt cho dù biểu tượng đấy có là Thiên tử đi chăng nữa.

anh-bai-rong-viet-5-986.jpg
Cá hoá rồng, chạm khắc TK17, lan can đá chùa Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc Ninh.

Sau những biểu tượng về triều đại, hình tượng rồng trong nghệ thuật Việt từ thế kỷ 17 trở đi đã mang một phong vị khác. Trên những thanh vì kèo trong kiến trúc đình làng khắp các làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ, những con rồng hiện lên như những biểu tượng về tâm linh. Chúng đã khắc tiết ít nhiều vẻ thị uy cung đình, mà an nhiên hiền hoà, quây quần đoàn tụ trong dáng vẻ thân thiện. Những hoạt cảnh Tứ Linh, rồng hội tụ với Phượng, với Lân, với Rùa vui vẻ hoạt bát, tràn trề năng lượng, giữa những đầm sen nở rộ. Rồi những con rồng phun nước cho những đàn cá chép thi nhau nhảy lên vượt vũ môn. Với dân gian, cái lý tưởng về học hành, thành đạt đã trở thành mục đích sống hướng đạo của mỗi con người.

Nó cũng là lý tưởng được nhà Lê Sơ đề cao từ những chạm khắc hình tượng “cá hoá rồng” trên những lan can thành bậc ở đàn Nam giao, vui nhộn đầy sức sống. Cá hoá rồng trong đình làng đã thoát ra khỏi khuôn thước của nghệ thuật cung đình để đa dạng hoá hơn với vô vàn các bố cục linh hoạt. Tuỳ vào những không gian chạm khắc, mà câu chuyện này được kể ra bằng hình ảnh như thế nào. Có con rồng phun nước trên cao xuống toé bọt sóng, nhưng cũng có con rồng trên những xà, những bẩy ngoắt đầu lại để tạo ra một chiếc cầu vồng cong cong. Những con cá chép dường như được động viên, phấn khích nhảy vồng theo nhịp nước.

Rồi không chỉ tìm thấy trong đình làng, rất nhiều các bức chạm trên đá của thế kỷ 17, 18 điển hình như trên lan can đá chùa Bút Tháp, rồi thân tháp Báo Nghiêm cá hoá rồng đã trở thành hoạt cảnh sinh động nhất mà ta được chiêm ngưỡng. Rồng có lẽ từ một vật linh trong huyền thoại đã trở thành một biểu tượng để người xưa gửi vào đó sự giáo huấn con cháu, khích lệ tinh thần phấn đấu của những thế hệ sĩ tử, học chữ thánh hiền, để vượt vũ môn mà đỗ đạt ra làm quan.

Những hoạt cảnh như thế không chỉ tìm thấy trên chạm khắc đình làng, mà còn tìm thấy ở khắp mọi nơi. Trên những bức phù điêu đắp nổi trước các cổng đình, đền khắp đất kinh kỳ cũng như nơi thôn quê. Hình tượng rồng phun cột nước, cá nhảy tung hoành đôi khi không thuần tuý ý nghĩa chỉ là “cá hoá rồng”, mà chúng còn được lồng ghép, gắn kết với một trọng trách lớn lao, đó là góp phần tạo nên linh khí, phong thuỷ cho những di tích tâm linh nơi chúng ngự trị. Đâu có phải thế đất nào cũng tốt, để dựng lên những nơi thờ tự. Do đó, người Việt xưa đã đắp vẽ, để mượn hình tướng, mượn oai linh mà tạo nên khí thiêng hội tụ.

“Tả Thanh Long”, “Hữu Bạch Hổ” đã trở thành một cặp phạm trù đầy ngữ nghĩa trong phong thuỷ của người Việt. Hàm ý bên trái có rồng xanh chầu về, bên phải có hổ trắng thần phục, ấy là nơi linh khí hội tụ, thế long ngai vững bền, đắc địa để thánh nhân ngự trị. Thế mới biết, con rồng trong dân gian đâu chỉ là một con vật huyền thoại, hư cấu tưởng tượng, mà chính biểu tượng đó đã góp mặt vào đời sống tâm linh một cách sâu sắc.

Chưa kể đến một quan niệm về phong thuỷ khác của người Việt, quan niệm vừa tạo nên sự gắn kết giữa “biểu tượng cá hoá rồng” vừa như gắn với quan niệm nhân sinh. Đó là quan niệm “Mả táng hàm rồng” tức mồ mả tổ tiên mà táng vào thế đất “hàm rồng” thì ắt con cháu đời đời được hưởng phúc, được đỗ đạt, quan quyền. Thế nên trong vô số những bức chạm khắc trên đình làng Việt, hoạt cảnh mả táng hàm rồng đã được các nghệ nhân xưa chạm khắc vô cùng sinh động và hóm hỉnh.

Tiêu biểu như bức chạm ở đình Chu Quyến, Ba Vì, Hà Nội, mô tả một thanh niên cởi trần đóng khố, đang đút một chiếc khúc gỗ nhỏ tượng trưng cho chiếc quan tài vào miệng con rồng đang há lớn. Cả người cả rồng dường như được chạm khắc với một thái độ hân hoan, rạng rỡ. Sự hoan hỉ đó như truyền cảm đến người xem, ngắm để thấy như được vui lây với ý nghĩa về phúc, lộc viên mãn, chứ không gợn lên chút gì về hàm ý chết chóc tang thương. Cái tài tình, thâm thuý của người xưa là vậy.

Có lẽ chưa hết để nói về tính giáo huấn được gửi gắm trong các hình tượng rồng. Bên cạnh sự khích lệ con cháu học hành, đèn sách để như con cá hoá thành con rồng, thì vô số các hoạt cảnh “lão long huấn tử” cũng được chạm khắc trong các ngôi đình của thế kỷ 18. Điển hình như đình Mông phụ, bức chạm này được đặt ngay bên phải gian giữa của ngôi đình. Lão rồng già đang mở sách dạy con là một sự tôn vinh truyền thống hiếu học, trọng đạo nghĩa, tôn ti. Một biểu tượng như thiết lập nên một giá trị xã hội ngay ngắn, trên dưới, người trước làm gương cho người sau, con cháu đời đời tuân thủ.

rong-da-987.jpg
Cặp rồng đá thành bậc đền Thượng - Cổ Loa được chạm khắc hoa văn rất đặc biệt.

Thế mới thấy rằng, hình tượng con rồng trong nghệ thuật dân gian, đâu chỉ là một con vật được hội tụ vào đó đầy đủ những đặc điểm về sức mạnh của những con vật khác như sừng nai, tai thú, trán lạc đà, mình rắn… mà trong trí tưởng tượng của dân gian đôi khi đã nhân cách hoá để chúng trở thành những biểu tượng mang đậm trong đó những giá trị nhân văn.

Từ một Thăng Long rồng bay, con rồng trong truyền thuyết thiết lập nên một niềm tự hào dân tộc từ giấc mơ vua Lý, đã bay qua dòng chảy lịch sử để được bồi đắp bởi những quan niệm dân gian, gửi gắm vào đó những lý tưởng từ sự duy trì nòi giống cho đến tổ chức xã hội tôn ti đến học hành đỗ đạt. Có thể nói, con rồng Việt trên hành trình đó đã tạo nên một khí chất Việt đậm nét tự hào.

Rồng Đại Việt cho dù ở tư thế nào cũng như vươn mình lên với những uốn khúc hình sin căng sức bật cùng một chiếc mào lớn đại tượng hình lá đề - biểu tượng Phật giáo lập nên vị thế cho một Thăng Long đầy hào khí.

Theo Việt Nam Net

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Xuất bản cuốn sách 'Điện Biên Phủ' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến với độc giả Ả Rập

Xuất bản cuốn sách 'Điện Biên Phủ' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến với độc giả Ả Rập

Trong khuôn khổ các hoạt động đối ngoại và giao lưu văn hóa - học thuật giữa Việt Nam với các quốc gia khu vực Ả Rập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản tiếng Việt cuốn sách "Điện Biên Phủ" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Light books phát hành, đồng thời phát hành phiên bản tiếng Ả Rập.

Đồng hành cùng dòng chảy thời đại

Đồng hành cùng dòng chảy thời đại

Ngày 10/12/1951, nhân dịp khai mạc Triển lãm hội họa tại Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang), Bác Hồ đã viết thư gửi các họa sĩ. Trong thư, Bác viết: “Vǎn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, trước hết là công, nông, binh”. 

Hơi thở mới trong nghề xưa

Hơi thở mới trong nghề xưa

Festival sông Hồng năm 2025 đã khép lại, nhưng để lại nhiều dấu ấn đậm nét về các sự kiện văn hóa sôi động, trong đó, nổi bật là không gian văn hóa các dân tộc Lào Cai - trở thành điểm nhấn thu hút du khách. 

Phát triển du lịch cộng đồng từ bảo tồn bản sắc văn hóa

Phát triển du lịch cộng đồng từ bảo tồn bản sắc văn hóa

Trong phát triển du lịch cộng đồng ở vùng cao, câu chuyện bảo vệ cảnh quan, bảo tồn bản sắc văn hóa luôn là vấn đề đáng quan tâm. Tại xã Y Tý, nơi du lịch cộng đồng đang phát triển, chàng trai người Hà Nhì Phu Suy Thó, chủ Homestay Khám phá Y Tý đã dành nhiều thời gian sưu tầm những đồ vật đặc trưng văn hóa người Hà Nhì để trưng bày, giới thiệu với du khách.

“Giữ lửa” văn chương cho thế hệ trẻ

“Giữ lửa” văn chương cho thế hệ trẻ

Nhà văn Nguyễn Hiền Lương - nguyên Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Yên Bái (cũ), hiện là Chi hội trưởng Chi hội Thơ tỉnh Lào Cai. Bên cạnh hoạt động sáng tác, ông vẫn miệt mài “giữ lửa” cho những tâm hồn trẻ yêu văn chương bằng việc đồng hành cùng học sinh qua các lớp bồi dưỡng.

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO

Nghề làm tranh Đông Hồ đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, diễn ra tại Di sản Văn hóa Thế giới Pháo Đài Đỏ, New Delhi, Ấn Độ.

Lần đầu công bố lưu bút và hiện vật quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Lần đầu công bố lưu bút và hiện vật quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh

300 ảnh, tài liệu, hiện vật tiêu biểu ở trưng bày mới nhất của Bảo tàng Hồ Chí Minh kể hành trình của lãnh tụ vĩ đại trên quê hương Cách mạng tháng Mười. Một số tư liệu, hiện vật ấn tượng có thể kể đến bộ tem kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh do Liên Xô phát hành năm 1990, khăn quàng đỏ và huy hiệu thiếu nhi Liên Xô tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh, thỏi sắt, hòn đá, đất Chủ tịch Hồ Chí Minh đem về từ Stalingrad sau chuyến thăm năm 1957. 

Hồn núi qua tiếng khèn

Hồn núi qua tiếng khèn

Ngày ngày, Su thổi hồn vào từng thanh tre, từng mảnh gỗ để tạo nên những chiếc khèn - nhạc cụ thiêng liêng, biểu tượng văn hóa của dân tộc Mông.

Nhà văn Tống Ngọc Hân - Người viết dám chạm vào sự thật trần trụi của vùng biên

Nhà văn Tống Ngọc Hân - Người viết dám chạm vào sự thật trần trụi của vùng biên

Trên văn đàn đương đại, hiếm có cây bút nữ nào kiên trì và bền bỉ với đề tài miền núi như Tống Ngọc Hân. Nhưng điều khiến văn chương của chị trở nên đặc biệt chính là viết về thứ chị thạo nhất (miền núi) và thứ chị đam mê nhất (hình sự), một lối đi tưởng như nhiều rào cản nhưng lại mở ra cho chị biên độ sáng tạo rộng lớn.

Nơi gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu

Nơi gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu

Được thành lập ngày 2/9/2022 với 24 hội viên, đến nay Câu lạc bộ (CLB) Di sản thơ ca miền đất nhớ Văn Yên, xã Mậu A đã có 63 hội viên ở nhiều ngành nghề và lứa tuổi khác nhau. CLB trở thành mái nhà chung của những tâm hồn đồng điệu, nơi nuôi dưỡng niềm đam mê văn chương, gìn giữ và phát huy những giá trị di sản thơ ca truyền thống, đồng thời tạo không gian sinh hoạt văn hóa ý nghĩa, gắn kết cộng đồng và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của hội viên.

Ngôi đền cổ giữa lòng Sa Pa

Ngôi đền cổ giữa lòng Sa Pa

Phường Sa Pa là trung tâm của Khu du lịch quốc gia Sa Pa nổi tiếng trong nước và quốc tế. Nơi đây không chỉ có khí hậu mát mẻ, thiên nhiên tươi đẹp, đô thị hiện đại, mà còn có những di tích lịch sử văn hóa quan trọng, đặc biệt là những ngôi đền có lịch sử lâu đời như đền Hàng Phố, đền Mẫu Sơn, đền Mẫu Thượng. Trong đó, đền Hàng Phố được xây dựng từ thế kỷ XIX nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, là điểm đến hấp dẫn du khách.

Dấu mốc trưởng thành của những chàng trai người Dao

Dấu mốc trưởng thành của những chàng trai người Dao

Lễ cấp sắc của người Dao được coi là dấu mốc trưởng thành của nam giới, đồng thời khẳng định họ đã đủ tư cách tham gia vào các công việc lớn của gia đình, dòng họ và cộng đồng. Chùm ảnh sau được thực hiện tại gia đình bà Hoàng Thị Mỳ, người Dao Tuyển ở Bản Lụ, xã Xuân Hòa, tỉnh Lào Cai trong dịp gia đình tổ chức lễ cấp sắc cho 2 cháu nội là Nông Chí Thiện (8 tuổi) và Nông Chí Hùng (17 tuổi).

fb yt zl tw