Kế hoạch hành động chiến lược triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW: Tổng thể, thống nhất và đồng bộ

Kế hoạch hành động chiến lược triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW đưa ra mô hình quản trị hiện đại, đồng bộ, thống nhất trong điều hành, tổ chức, triển khai; cơ chế giám sát, đánh giá theo thời gian thực nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết.

Bảo đảm tính tổng thể, chiến lược, toàn diện, thống nhất, đồng bộ

Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển có tính chất bản lề, trong đó khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đóng vai trò nền tảng cho nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng thích ứng trước các biến động dài hạn.

Trước yêu cầu cấp thiết đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW ra đời đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm lớn từ các cấp ủy đảng, chính quyền, các nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp.

Ảnh minh họa:

Ảnh minh họa:

Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia ngày 13-1-2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đã chỉ ra những định hướng chiến lược và được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước đồng thuận, xem đây như một "khoán 10" trong lĩnh vực khoa học và công nghệ”. Đồng chí cũng khẳng định: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là lựa chọn, mà là con đường sống còn”.

Để hiện thực hóa những định hướng lớn của Nghị quyết, cần phải có một kế hoạch hành động mang tính tổng thể, chiến lược, có cơ chế điều phối liên ngành đủ mạnh, nhằm khắc phục một số hạn chế như: Nhiệm vụ còn phân tán, thiếu cấu trúc hệ thống; nhiều nội dung đột phá chưa có tiền lệ tổ chức thực hiện...

Để giải quyết bài toán này, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã ban hành Kế hoạch hành động chiến lược triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW.

Kế hoạch được thực hiện trên yêu cầu phải làm rõ được vai trò định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương trong triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW; bảo đảm thực hiện có hệ thống, khả thi, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, kết nối liên thông giữa các cấp, các ngành và giữa khu vực nhà nước với khu vực ngoài nhà nước; đồng thời, làm cơ sở tích hợp các chương trình, kế hoạch, dự án hiện có; định hướng xây dựng sáng kiến mới phù hợp điều kiện từng ngành, địa phương; cung cấp căn cứ để cụ thể hóa thành kế hoạch trung hạn, hằng năm, chương trình mục tiêu, dự án đầu tư và hợp tác; tạo điều kiện tăng cường phối hợp, huy động nguồn lực và phát triển đồng bộ các yếu tố đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số.

Việc triển khai Kế hoạch phải bảo đảm tính hệ thống, phân tầng hợp lý giữa các mục tiêu, nhiệm vụ, công cụ; thiết kế linh hoạt, có khả năng cập nhật, điều chỉnh phù hợp tình hình thực tiễn; xác định rõ trách nhiệm, đầu mối thực hiện và các điều kiện bảo đảm cần thiết; tăng cường điều phối giữa các cấp, các ngành, tránh chồng chéo, trùng lặp và tích hợp công cụ theo dõi, giám sát và đánh giá hiệu quả, phục vụ điều hành, điều chỉnh kịp thời, hiệu quả.

Cấu trúc hệ thống phù hợp với phương thức quản trị hiện đại

Kế hoạch hành động chiến lược được thiết kế theo cấu trúc gồm 6 Hệ thống, trong đó có 5 Hệ thống Chiến lược trọng yếu phản ánh các trụ cột phát triển dài hạn và 1 Hệ thống Dự án đặc biệt quan trọng tập trung triển khai các chương trình, dự án đột phá, quy mô lớn, cần sự chỉ đạo tập trung và huy động nguồn lực quốc gia.

Theo đó, mỗi Hệ thống bao gồm tập hợp các sáng kiến định hướng, có tính dẫn dắt, mở ra không gian triển khai linh hoạt cho các cơ quan, tổ chức, địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng khoa học. Cấu trúc này bảo đảm liên kết theo chiều ngang (liên ngành, liên lĩnh vực) và chiều dọc (Trung ương - địa phương), phù hợp với phương thức quản trị hiện đại.

Hệ thống 1: Đổi mới thể chế và quản trị quốc gia - hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực quản trị, xây dựng Chính phủ số, tăng cường an ninh - quốc phòng công nghệ cao;

Hệ thống 2: Phát triển công nghiệp và tự chủ công nghệ - làm chủ công nghệ lõi trong các lĩnh vực chiến lược, thúc đẩy công nghiệp nội sinh và chuyển đổi số trong doanh nghiệp;

Hệ thống 3: An sinh và phúc lợi xã hội - ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong y tế, giáo dục, nông nghiệp, môi trường, lao động, nhà ở... nhằm nâng cao chất lượng sống và phát triển bao trùm;

Hệ thống 4: Hạ tầng thông tin và dữ liệu - phát triển hạ tầng số thế hệ mới, bảo đảm tính kết nối, an toàn, tích hợp; triển khai cách mạng dữ liệu quốc gia;

Hệ thống 5: Năng lực sáng tạo và văn hóa đổi mới - xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo lấy con người làm trung tâm, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy học thuật, sáng tạo;

Hệ thống 6: Các Dự án đặc biệt quan trọng - triển khai các dự án chiến lược có ảnh hưởng lan tỏa cao như AI quốc gia, công nghệ gene, đường sắt cao tốc Bắc - Nam.

Toàn bộ các Hệ thống được cụ thể hóa thông qua danh mục Sáng kiến đột phá và Hệ thống chỉ tiêu đo lường (KPIs). Mỗi sáng kiến có định hướng nội dung, sản phẩm đầu ra, thời hạn thực hiện, cơ quan phụ trách và tiêu chí đánh giá.

Triển khai các giải pháp đồng bộ, hiệu quả

Để bảo đảm triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động chiến lược, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương yêu cầu triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm như: Phát huy vai trò điều phối thống nhất của Ban Chỉ đạo Trung ương; thiết lập mô hình quản trị hiện đại, đề cao trách nhiệm “Tổng công trình sư”; lồng ghép nội dung Kế hoạch vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thiết lập hệ thống giám sát, đánh giá theo thời gian thực; hoàn thiện cơ chế, chính sách và thử nghiệm mô hình đặc thù; huy động đa dạng nguồn lực, ưu tiên ngân sách cho sáng kiến trọng điểm; tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm tiên tiến.

Việc triển khai Kế hoạch hành động chiến lược được xác định theo 3 giai đoạn, phù hợp với mục tiêu trung hạn (đến năm 2030) và dài hạn (đến năm 2045). Theo đó, giai đoạn 2025 - 2026 là giai đoạn khởi động và thiết lập nền tảng; giai đoạn 2026 - 2030 triển khai đồng bộ, đánh giá giữa kỳ và giai đoạn 2030 - 2045 là củng cố, mở rộng và hoàn thiện.

Đây có thể coi là tấm bản đồ tổng thể, là tầm nhìn dài hạn, xác định rõ các hệ thống chiến lược, các mục tiêu, chỉ tiêu để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW; là kim chỉ nam, định hướng đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Báo Quân đội nhân dân

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Nhà báo số

Nhà báo số

Trong dòng chảy không ngừng của truyền thông hiện đại, nghề báo đang chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ. Người làm báo hôm nay chủ động sáng tạo nội dung đa phương tiện, linh hoạt ứng dụng công nghệ số để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của độc giả.

Hóa đơn điện tử từ máy tính tiền: Tiểu thương không có hóa đơn đầu vào, phải làm thế nào?

Hóa đơn điện tử từ máy tính tiền: Tiểu thương không có hóa đơn đầu vào, phải làm thế nào?

Chính sách áp dụng hóa đơn điện tử (HĐĐT) đối với hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên đã được triển khai từ ngày 1/6/2025, nhưng đến nay, nhiều tiểu thương vẫn còn bỡ ngỡ, lo lắng vì chưa hiểu hết về lợi ích của chính sách thuế, cũng như quy trình sử dụng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền.

Cơ hội để báo chí tìm lối đi trong thời đại số

Cơ hội để báo chí tìm lối đi trong thời đại số

Báo chí Việt Nam và thế giới đang trải qua một cuộc chuyển mình mạnh mẽ chưa từng có về phương thức, cách thức làm nghề. Công nghệ phát triển như vũ bão, đặc biệt là mạng xã hội và trí tuệ nhân tạo (AI) đã và đang tác động rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Hội nghị chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng từ Sở Khoa học và Công nghệ sang Công an tỉnh Lào Cai.

Chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng từ Sở Khoa học và Công nghệ sang Công an tỉnh Lào Cai

Sáng 9/6, tại trụ sở Sở Khoa học và Công nghệ đã diễn ra Hội nghị chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng từ Sở Khoa học và Công nghệ sang Công an tỉnh Lào Cai. Đồng chí Nguyễn Thành Sinh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị.

Giải quyết bài toán dữ liệu và nhân lực cho phát triển AI “Make in Vietnam”

Giải quyết bài toán dữ liệu và nhân lực cho phát triển AI “Make in Vietnam”

Trí tuệ nhân tạo (AI) Việt Nam đang phát triển nhanh chóng và có tiềm năng lớn nhờ sự quan tâm của chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng công nghệ. Tuy nhiên, dữ liệu và nhân lực là hai trong số những điểm nghẽn cần tháo gỡ để phát triển AI nội địa bền vững, phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam.

Cục Thuế đề nghị các tổ chức cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử đồng hành hỗ trợ hộ kinh doanh

Cục Thuế đề nghị các tổ chức cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử đồng hành hỗ trợ hộ kinh doanh

Cục Thuế vừa có văn bản gửi các tổ chức cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử (gồm tổ chức cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử và tổ chức cung cấp dịch vụ nhận, truyền, lưu trữ dữ liệu hóa đơn điện tử) về việc phối hợp cùng cơ quan thuế triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền đối với hộ kinh doanh.

Khát vọng thương hiệu AI Việt

Khát vọng thương hiệu AI Việt

Tại Diễn đàn cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam - châu Á 2025 được tổ chức mới đây, ông Nguyễn Tử Quảng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) chia sẻ: “Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra DeepSeek hay một mô hình nền tảng giống GPT của riêng mình”.

fb yt zl tw