Có thật Việt Nam đang áp thuế quan 90% với hàng hóa Hoa Kỳ?

Nhận định "Việt Nam đang áp mức thuế quan lên tới 90% đối với hàng hóa của Hoa Kỳ" là một trong những lý do để chính quyền Hoa Kỳ quyết định áp thuế 46% đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một tuyên bố đáng lưu ý, không chỉ vì tác động thương mại mà còn bởi ý nghĩa chính trị-pháp lý mà nó kéo theo.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng.

Là một người gần 20 năm phụ trách hoạt động nghiên cứu pháp lý cho Quốc hội, tôi cho rằng cần thiết phải thẩm định lại lập luận trên một cách độc lập và khách quan. Trước hết, câu hỏi đặt ra là: con số 90% này đến từ đâu, và nó có cơ sở thực chứng hay không?

Dữ liệu chính thức cho thấy không có mức thuế quan nào đạt tới 90%.

Theo Báo cáo về Rào cản Thương mại nước ngoài năm 2024 của Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) - nguồn tài liệu chính thức do chính phía Hoa Kỳ công bố - thì: Mức thuế MFN (tối huệ quốc) trung bình của Việt Nam là 9,4%; đối với hàng nông nghiệp là 17,1%; đối với hàng phi nông nghiệp là 8,1%.

Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ năm 2007 và đã ràng buộc toàn bộ các dòng thuế trong biểu cam kết. Từ góc nhìn này, khó có thể tìm thấy dòng thuế nào chạm đến ngưỡng 90%.

"90%" dường như là một phép cộng mang tính hình ảnh hơn là con số pháp lý.

Con số 90% - nếu có ý nghĩa thực tế - dường như được hình thành bằng cách cộng gộp nhiều khoản thuế và chi phí mà một số loại hàng hóa nhập khẩu đặc biệt (như rượu, thực phẩm cao cấp…) phải gánh chịu bao gồm Thuế nhập khẩu (MFN); Thuế tiêu thụ đặc biệt (tính theo giá bán, thường cao hơn giá nhập khẩu); Thuế giá trị gia tăng (VAT) và một số chi phí hành chính liên quan đến kiểm định chất lượng, đăng ký lưu hành, thủ tục hải quan…

Tuy nhiên, từ góc nhìn luật thương mại quốc tế, chỉ thuế nhập khẩu trực tiếp mới được xem là "thuế quan" theo định nghĩa trong WTO và các hiệp định thương mại tự do. Các loại thuế nội địa và chi phí hành chính chỉ được coi là rào cản phi thuế quan và phải được đánh giá trong bối cảnh cụ thể.

Hơn nữa, những khoản thuế gián thu như VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng đồng đều cho cả hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, vì vậy không thể được xem là hành vi bảo hộ hay phân biệt đối xử thương mại.

Ngoài ra, phương pháp gộp cộng các loại thuế và chi phí thành một chỉ số duy nhất như "thuế 90%" không phản ánh đúng cách đo lường mức độ bảo hộ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong kinh tế học thương mại, người ta sử dụng các khái niệm như mức bảo hộ danh nghĩa (nominal protection rate) và mức bảo hộ hiệu dụng (effective protection rate), nhưng hai khái niệm này cũng được tính toán theo phương pháp thống nhất, có cơ sở lý thuyết rõ ràng, chứ không phải là phép cộng tùy nghi giữa các loại thuế và chi phí.

Do đó, việc sử dụng con số "90%" như một mức thuế quan là không chuẩn xác về mặt khái niệm, không hợp lệ về mặt pháp lý và thiếu thuyết phục về mặt học thuật.

Việc sử dụng con số "90%" như một mức thuế quan là không chuẩn xác về mặt khái niệm, không hợp lệ về mặt pháp lý và thiếu thuyết phục về mặt học thuật.
Việc sử dụng con số "90%" như một mức thuế quan là không chuẩn xác về mặt khái niệm, không hợp lệ về mặt pháp lý và thiếu thuyết phục về mặt học thuật.

Những khác biệt về hệ thống thuế không đồng nghĩa với phân biệt đối xử.

Mỗi quốc gia có một hệ thống thuế gián thu được thiết kế dựa trên cấu trúc kinh tế, mục tiêu chính sách và năng lực quản lý của riêng mình. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, thuế tiêu thụ đặc biệt thường được áp dụng để điều tiết hành vi tiêu dùng đối với các mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá, nước ngọt có đường... Đây là chính sách nhằm mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng, chứ không phải nhằm phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu.

Ngay cả khi trong thực tế các mặt hàng nhập khẩu phải chịu gánh nặng thuế tổng thể cao hơn so với sản phẩm trong nước - do phương pháp tính thuế, chi phí tuân thủ hoặc định giá khác biệt - thì điều đó không mặc nhiên đồng nghĩa với sự vi phạm nghĩa vụ thương mại quốc tế, miễn là:

1. Các quy định được áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước;

2. Không có hành vi đối xử khác biệt theo xuất xứ;

3. Quy trình ban hành, thực thi các chính sách là minh bạch và có thể dự đoán.

Trong luật thương mại quốc tế, yếu tố then chốt không phải là kết quả thuần túy về gánh nặng thuế, mà là quy trình và nguyên tắc áp dụng. Chính vì vậy, sự khác biệt về tổng gánh nặng thuế giữa hàng hóa Hoa Kỳ và hàng hóa nội địa Việt Nam (nếu có), cần được phân tích kỹ lưỡng và so sánh một cách hệ thống, chứ không thể lấy một số ít ví dụ đơn lẻ làm đại diện cho chính sách chung.

Hơn nữa, trong thực tiễn thương mại quốc tế, một số mặt hàng nhạy cảm như nông sản, thép, dệt may... thường bị áp mức thuế cao ở nhiều quốc gia, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, những mức thuế này không mặc nhiên bị xem là hành vi phân biệt đối xử, nếu được áp dụng theo biểu thuế công khai, không phân biệt đối tác thương mại và tuân thủ nguyên tắc MFN trong WTO.

Vì vậy, để xác lập hành vi phân biệt, không thể chỉ dựa trên mức thuế cao mà cần chứng minh sự thiên lệch trong đối xử với hàng hóa của một quốc gia cụ thể, điều mà trong trường hợp của Việt Nam, cho đến nay chưa có bằng chứng rõ ràng.

Áp thuế trả đũa dựa trên con số không rõ ràng: rủi ro về pháp lý và tiền lệ.

Việc chính quyền Hoa Kỳ sử dụng con số "90%" như một lý lẽ trung tâm để áp thuế 46% đối với hàng hóa từ Việt Nam đặt ra một câu hỏi lớn: Liệu đó có phải là cách tiếp cận phù hợp với tinh thần pháp lý quốc tế và các nguyên tắc của WTO?

Nếu xu hướng định lượng một cách cảm tính như vậy trở nên phổ biến, hệ thống thương mại đa phương có nguy cơ mất đi sự ổn định. Bất kỳ quốc gia nào cũng có thể biện minh cho hành động đơn phương của mình bằng các lập luận không được thẩm định độc lập hoặc không phản ánh đúng bản chất pháp lý của sự việc.

Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cần nhiều hơn sự chính xác và đối thoại.

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt đến cấp độ Đối tác chiến lược toàn diện. Trong bối cảnh đó, cách tiếp cận dựa trên dữ liệu đáng tin cậy, đánh giá khách quan và tinh thần đối thoại là nền tảng để xử lý khác biệt, thay vì sử dụng những lập luận mang tính biểu tượng hay cảm xúc.

Cuối cùng, việc khẳng định Việt Nam đang áp thuế quan 90% đối với hàng hóa Hoa Kỳ – nếu không có minh chứng cụ thể và hợp pháp – là một cách diễn giải thiếu chính xác. Tôi cho rằng những khác biệt thương mại – dù có – vẫn hoàn toàn có thể giải quyết thông qua các cơ chế hợp tác hiện có, với sự tôn trọng lẫn nhau và cam kết cùng hướng tới một trật tự thương mại ổn định, công bằng và dựa trên luật lệ.

baochinhphu.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Tiếp cận thông tin, xây dựng mô hình kinh tế hiệu quả bền vững

Tiếp cận thông tin, xây dựng mô hình kinh tế hiệu quả bền vững

Trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, "Giảm nghèo thông tin" được xác định là giải pháp then chốt, giúp người dân tiếp cận chính sách, học tập mô hình sản xuất hiệu quả và đổi mới tư duy phát triển kinh tế. Nhờ thông tin kịp thời, phù hợp, nhiều hộ đã mạnh dạn áp dụng cách làm mới, xây dựng sinh kế ổn định, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Hội nghị tổng kết Dự án Thúc đẩy phát triển nghề nghiệp và kinh doanh cho thanh niên và phụ nữ Lào Cai và Phú Thọ

Hội nghị tổng kết Dự án Thúc đẩy phát triển nghề nghiệp và kinh doanh cho thanh niên và phụ nữ Lào Cai và Phú Thọ

Ngày 17/12, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh Lào Cai phối hợp với tổ chức Aide et Action (AEA) và Trung tâm Nghiên cứu về Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển tổ chức hội nghị tổng kết Dự án Thúc đẩy phát triển nghề nghiệp và kinh doanh cho thanh niên và phụ nữ tại Lào Cai và Phú Thọ.

Xanh mướt cao nguyên

Xanh mướt cao nguyên

Không có những cánh đồng rau bạt ngàn như miền xuôi, Bắc Hà khiến du khách ngạc nhiên giữa núi đá trập trùng vẫn xanh ngắt rau màu. Rau theo chân những người phụ nữ gùi, chở xe máy tỏa khắp ngả đường, phủ xanh chợ phố. Ở đây, rau không mọc thành cánh đồng lớn mà len lỏi giữa ruộng lúa, nương ngô, vườn cây, thậm chí vươn lên từ những hốc đá nhỏ hẹp.

Tăng tốc trên các dự án giao thông kết nối

Tăng tốc trên các dự án giao thông kết nối

Những ngày cuối năm, trên công trình, dự án giao thông trọng điểm, nhà thầu đang đẩy nhanh tiến độ thi công với tinh thần “vượt nắng, thắng mưa”, “3 ca, 4 kíp” để về đích đúng hạn. Trong đó có dự án đường nối Quốc lộ 70 - 32C - 37 với cao tốc Nội Bài - Lào Cai và dự án nâng cấp Quốc lộ 32C đoạn Hiền Lương - thành phố Yên Bái (trước hợp nhất).

Phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ làm dược liệu gắn với doanh nghiệp và cộng đồng

Phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ làm dược liệu gắn với doanh nghiệp và cộng đồng

Chiều 16/12, tại xã Phong Hải, Trung tâm Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ (Viện Khoa học và Lâm nghiệp Việt Nam) phối hợp với xã Phong Hải, Chi cục Kiểm lâm tỉnh và một số doanh nghiệp, người dân trên địa bàn tổ chức Hội thảo định hướng phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ làm dược liệu gắn với doanh nghiệp kinh doanh dựa vào cộng đồng.

Nông dân Gia Phú và nhịp sống trên những ruộng rau

Nông dân Gia Phú và nhịp sống trên những ruộng rau

Xã Gia Phú là vùng sản xuất rau lớn của tỉnh, tập trung tại các thôn: Soi Cờ, Chính Tiến, Đồng Lục, Bến Phà, Giao Ngay, Giao Tiến, Thái Bo, Hòa Lạc, với tổng diện tích hơn 120 ha và hàng trăm hộ canh tác. Trên những cánh đồng rau xanh mướt, nông dân Gia Phú  đang cần mẫn gieo hạt, vun gốc, tưới nước đến thu hoạch.

Trồng rau an toàn hướng mới giảm nghèo bền ở xã Lùng Phình

Trồng rau an toàn hướng mới giảm nghèo bền ở xã Lùng Phình

Cùng với việc triển khai đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia, xã Lùng Phình đã từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, khí hậu để nâng cao thu nhập cho người dân. Điển hình là mô hình trồng rau an toàn do các hợp tác xã liên kết đầu tư hiệu quả trên địa bàn, mở hướng giảm nghèo mới cho địa phương.

Thống nhất chính sách, nâng tầm 605 sản phẩm OCOP tỉnh Lào Cai sau sáp nhập

Thống nhất chính sách, nâng tầm 605 sản phẩm OCOP tỉnh Lào Cai sau sáp nhập

Trong bối cảnh chương trình OCOP ngày càng đi vào chiều sâu, Lào Cai và Yên Bái sau khi hợp nhất thành tỉnh Lào Cai, hiện có 605 sản phẩm OCOP. Mặc dù có lợi thế diện tích rộng và nhiều đặc sản, tỉnh vẫn đang đối mặt với không ít thách thức trong quá trình nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm này...

Hướng tới tăng trưởng "2 con số" thông qua chuyển đổi kép Xanh và Số

Hướng tới tăng trưởng "2 con số" thông qua chuyển đổi kép Xanh và Số

Chiều 16/12, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 đã diễn ra với chủ đề "Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số". Đây là sự kiện kinh tế thường niên quy mô lớn, gồm 1 phiên toàn thể cấp cao và 2 phiên chuyên đề, thu hút sự tham gia của hơn 500 đại biểu trực tiếp và hơn 1.000 đại biểu trực tuyến tại 34 điểm cầu trên cả nước.

Chủ động bảo vệ cây trồng, vật nuôi trong những ngày rét hại

Chủ động bảo vệ cây trồng, vật nuôi trong những ngày rét hại

Trước diễn biến thời tiết cực đoan, nhiệt độ giảm sâu, nhiều nơi xuất hiện băng giá và sương muối, các địa phương trên địa bàn tỉnh đã đồng loạt triển khai công tác tuyên truyền hướng dẫn người dân che chắn chuồng trại, dự trữ thức ăn cho gia súc và chăm sóc cây trồng nhằm hạn chế tối đa thiệt hại trong những ngày rét đậm, rét hại.

Lào Cai: Sẵn sàng cho lễ khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Lào Cai: Sẵn sàng cho lễ khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Ngày 19/12 sẽ diễn ra lễ khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Đây là dự án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai, vì vậy, những ngày qua, các cấp, các ngành liên quan đã dồn sức chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất, sẵn sàng cho lễ khởi công diễn ra theo đúng kế hoạch.

fb yt zl tw