Để nông thôn trở thành 'lực hút' lao động chất lượng cao

Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề gắn với việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn là nhiệm vụ quan trọng nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng NTM.

Trăn trở về vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn, GS.TS Lê Quân - Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã dành nhiều năm để nghiên cứu thực trạng, thành tựu và hạn chế trong việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Không dừng lại ở đó, rất nhiều kinh nghiệm của các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan... đã được GS.TS Lê Quân đúc rút, từ đó đưa ra một hệ thống quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp phát triển nhân lực, đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

GS.TS Lê Quân - Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.
GS.TS Lê Quân - Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.

I. 

Mặc dù quá trình đô thị hoá và hội nhập kinh tế đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị, tuy nhiên lao động vẫn tập trung ở nông thôn và tăng dần theo các năm. Cụ thể, theo Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2020 của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn gần 36,7 triệu người, chiếm gần 67% lực lượng lao động cả nước. Điều này tiếp tục gây sức ép về nhu cầu đào tạo và giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.

Sự di cư của lao động nông thôn gây tình trạng thiếu việc làm cho thành thị, đồng thời gây thiếu hụt lao động ở nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp của người di cư năm 2020 khoảng 9,82%, cao hơn khoảng 4,4 lần so với tỷ lệ thất nghiệp chung của lao động từ 15 tuổi trở lên (2,25%), phần lớn tập trung ở lao động không qua đào tạo chuyên môn, kỹ thuật.

Đặc biệt, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ sơ cấp trở lên tại khu vực nông thôn chỉ đạt 16%, thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị (39,3%). Đây là một thách thức lớn trong việc nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Trong khi đó, quy mô đào tạo các ngành nghề trong lĩnh vực nông nghiệp ở các cơ sở đào tạo ngày càng giảm mạnh. Lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động chất lượng cao không muốn về nông thôn.

Tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo nghề còn thấp.
Tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo nghề còn thấp.

Thực trạng này xuất phát từ thực tế khách quan là nông thôn không có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật để sử dụng người lao động có kỹ năng nghề cao. Trong khi đó, thu nhập từ lĩnh vực nông nghiệp còn thấp, giá cả sản phẩm nông nghiệp luôn trong tình trạng được mùa mất giá, trong khi đó các loại chi phí về vật tư, dịch vụ nông nghiệp khá đắt đỏ.

Không những vậy, việc ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông minh trong nông nghiệp còn gặp khó khăn. Sự đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân vẫn còn quá ít dẫn đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn chưa đạt hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn mới.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, ngay cả các quốc gia phát triển vẫn rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn. Điển hình như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc hoặc các nước đang phát triển như Thái Lan, Ấn Độ... vì mục tiêu của các nước là duy trì, phát triển lĩnh vực nông nghiệp, không phải là để nông nghiệp cạnh tranh được với lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ mà để nó tiếp tục tồn tại trong sự cạnh tranh với các sản phẩm nông nghiệp đến từ nơi khác, cho dù lịch vực nông nghiệp có thể chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu GDP.

Xét về phương diện quốc gia, nhất là các quốc gia châu Á, nông nghiệp chính là phương thức để tạo nên và giữ gìn bản sắc kinh tế - văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc và vùng lãnh thổ. Nông nghiệp gắn bó hữu cơ với người nông dân và văn hoá nông thôn. Bởi ý nghĩa sâu xa này, Chính phủ các nước đều có chính sách hỗ trợ cho nông dân và bao cấp cho nông nghiệp. Nguyên lý này đã được thừa nhận trong các quy tắc chung về thương mại quốc tế.

II.

Để giải quyết vấn đề lao động, việc làm nông thôn, các nước đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp phát triển nhân lực khác nhau, trong đó có một số giải pháp mà Việt Nam có thể tham khảo.

Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển nhân lực nông thôn, tạo cơ sở để triển khai các chính sách với mục tiêu thúc đẩy nguồn nhân lực phát triển theo hướng đã định của Nhà nước. Đây là những chiến lược đồng bộ, tổng thể về nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu của chiến lược đào tạo nông dân là giúp họ có niềm tin mãnh liệt vào chính mình trước những khó khăn về vật chất và tinh thần để họ trở nên tích cực, năng động, sáng tạo đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Chính phủ phải là nhà đầu tư lớn nhất, toàn diện nhất vào xây dựng các cơ sở đào tạo nghề, nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng cho người lao động. Các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc đưa ra nhu cầu, kế hoạch về sử dụng lao động và tham gia vào quá trình đào tạo.

Thứ hai, đa dạng hoá các hoạt động đào tạo chuyên môn nghề nghiệp, chuyển giao kiến thức, kỹ năng làm việc cho lao động nông thôn theo nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế.

Thứ ba, thúc đẩy công nghiệp ở vùng nông thôn, tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển nhân lực nông thôn. Bên cạnh phát triển kinh tế phi nông nghiệp vùng nông thôn, tăng cường đào tạo nghề và đổi mới chính sách đất đai... Nhật Bản đặc biệt coi trọng phát triển công nghiệp vùng nông thôn; có chính sách, kế hoạch, quy hoạch để thúc đẩy ngành công nghiệp ở các thành phố lớn sau đó lan toả về nông thôn.

Thái Lan dành rất nhiều chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp về đầu tư ở nông thôn. Từ cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp vùng nông thôn. Năm 1968, Hàn Quốc đã ban hành “Luật Phát triển công nghiệp địa phương”, trong đó nhấn mạnh việc thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp ở khu vực thành thị về nông thôn.

Thứ tư, quan tâm đào tạo nghề cho thế hệ thứ hai của lao động di cư. Trung Quốc coi đây là vấn đề phát triển nhân lực bền vững. Vì dịch chuyển lao động nông nghiệp liên quan mật thiết với di cư lao động.

Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, nhưng thực tế là đối tượng này luôn bị thiệt thòi trong nhiều chính sách, trong đó có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đối tượng này cần được đào tạo để hoà nhập xã hội nơi thành thị, để có được nghề nghiệp, tham gia thị trường lao động với năng suất, hiệu quả lao động.

nongnghiep.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Nơi đáng đến giữa đại ngàn Tây Bắc

Nơi đáng đến giữa đại ngàn Tây Bắc

Xã Hạnh Phúc nằm ở phía Tây tỉnh Lào Cai, nơi mà ngay từ tên gọi đã gợi mở khát vọng về một cuộc sống an lành, đủ đầy và hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc vùng cao. Giữa đại ngàn Tây Bắc hùng vĩ, Hạnh Phúc hiện lên vừa mộc mạc, nguyên sơ, vừa tràn đầy sức sống như một lời mời gọi chân thành dành cho những ai yêu thiên nhiên, say văn hóa và khao khát tìm kiếm những giá trị bền vững.

Đồng hành với nông dân phát triển kinh tế bền vững

Agribank Chi nhánh Bát Xát Lào Cai II: Đồng hành với nông dân phát triển kinh tế bền vững

Nguồn vốn tín dụng từ Agribank Chi nhánh Bát Xát Lào Cai II đã trở thành điểm tựa vững chắc, giúp hàng nghìn hộ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp vừa và nhỏ mạnh dạn mở rộng sản xuất, áp dụng kỹ thuật mới, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Nhờ đó, thu nhập được cải thiện, việc làm ổn định hơn và kinh tế nông thôn phát triển bền vững.

Mỏ Vàng nỗ lực giảm nghèo bền vững

Mỏ Vàng nỗ lực giảm nghèo bền vững

Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, thời gian qua, xã Mỏ Vàng đã có nhiều giải pháp linh hoạt, phù hợp tạo điều kiện cho hộ nghèo, cận nghèo được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, hưởng lợi từ các chương trình dự án để vươn lên thoát nghèo.

 Lào Cai phấn đấu 100% diện tích chuối hàng hóa được cấp mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu

Lào Cai phấn đấu 100% diện tích chuối hàng hóa được cấp mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu

Tính đến hết năm 2025, tổng diện tích trồng chuối trên địa bàn tỉnh đạt 3.884 ha, trong đó diện tích chuối sản xuất hàng hóa chiếm 2.709 ha. Sản lượng chuối toàn tỉnh đạt khoảng 58.000 tấn, với hơn 40.600 tấn phục vụ xuất khẩu, giá trị thu được trên 490 tỷ đồng, bình quân đạt 130 triệu đồng/ha/năm.

Quỹ hỗ trợ nông dân giúp nông dân Lào Cai vươn lên làm giàu bền vững

Quỹ hỗ trợ nông dân giúp nông dân Lào Cai vươn lên làm giàu bền vững

Những năm qua, Quỹ hỗ trợ nông dân tỉnh Lào Cai đã khẳng định vai trò là kênh tín dụng đặc thù, gần dân, sát thực tiễn sản xuất. Không chỉ hỗ trợ vốn, quỹ còn đồng hành cùng nông dân trong chuyển giao khoa học - kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo nhóm, theo chuỗi giá trị, góp phần giúp hàng nghìn hộ nông dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số từng bước thoát nghèo, vươn lên làm giàu bền vững.

Lào Cai giảm 73 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp so với năm 2024

Lào Cai giảm 73 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp so với năm 2024

Năm 2025, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lào Cai triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, giữ ổn định diện tích rừng tự nhiên; tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh dự kiến đạt khoảng 61,5%. Công tác thực thi pháp luật về lâm nghiệp tiếp tục chuyển biến tích cực, số vụ vi phạm giảm 73 vụ so với năm 2024.

Gần 1.200 hội viên phụ nữ xã Bảo Hà tiếp cận nguồn vốn tín dụng hỗ trợ phát triển kinh tế

Gần 1.200 hội viên phụ nữ xã Bảo Hà tiếp cận nguồn vốn tín dụng hỗ trợ phát triển kinh tế

Thông qua việc thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng ưu đãi, năm 2025, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Bảo Hà đang quản lý trên 100 tỷ đồng vốn vay, giúp hàng nghìn lượt hội viên phụ nữ có điều kiện phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững tại địa phương.

Đẹp ngỡ ngàng vườn bưởi đỏ “tiến vua”

Đẹp ngỡ ngàng vườn bưởi đỏ “tiến vua”

Trong chuyến công tác về xã Cảm Nhân cách đây 3 tháng, chúng tôi tình cờ biết đến những vườn bưởi đỏ ở thôn Ngòi Quán. Khi ấy, những vườn bưởi vẫn còn xanh, quả đang độ lớn. Theo lời hẹn với bà con nơi đây, những ngày cuối năm 2025, chúng tôi trở lại Ngòi Quán và được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấn tượng của loại quả “tiến vua” này.

Chi trả hơn 15,2 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng tại Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải

Chi trả hơn 15,2 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng tại Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải

Năm 2025, Ban Quản lý Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải triển khai hiệu quả chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, chuyển hơn 15,27 tỷ đồng trực tiếp đến các cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân và nâng cao trách nhiệm bảo vệ rừng đặc dụng.

Trung tâm SUDECOM: Hỗ trợ mô hình sinh kế cho 92 hộ thông qua dự án hỗ trợ mô hình sinh kế

Trung tâm SUDECOM: Hỗ trợ mô hình sinh kế cho 92 hộ thông qua dự án hỗ trợ mô hình sinh kế

Sáng 29/12, Trung tâm Hỗ trợ phát triển bền vững cộng đồng các dân tộc miền núi (SUDECOM) tổng kết Dự án “Hỗ trợ mô hình sinh kế và nâng cao năng lực tiếp cận chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng nhằm góp phần tăng thu nhập và bình đẳng giới tại 3 xã của tỉnh Lào Cai”.

Điểm sáng giảm nghèo của xã Bảo Hà

Điểm sáng giảm nghèo của xã Bảo Hà

Với sự quan tâm sâu sát của Đảng, Nhà nước, cùng sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, thôn 1 Nhai Tẻn, xã Bảo Hà đã từng bước vượt qua khó khăn, đạt nhiều kết quả tích cực trong giảm nghèo bền vững, trở thành điểm sáng trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Bảo vệ rừng để phát triển du lịch

Bảo vệ rừng để phát triển du lịch

Ở thôn Cang Dông xã Púng Luông, người dân vẫn đang lặng lẽ gìn giữ một “báu vật” của thiên nhiên. Đó là khu rừng Pơ mu với khoảng 70 gốc, trong đó có nhiều cây có tuổi đời 50 đến 70 năm tuổi. Không chỉ là tài sản quý giá về sinh thái, cánh rừng Pơ mu ấy còn đang trở thành điểm tựa để người dân nơi đây phát triển du lịch bền vững, gắn sinh kế với trách nhiệm bảo vệ rừng.

Nhà khoa học của nhà nông và hành trình đưa dược liệu bền vững đến với nông dân Lào Cai

Nhà khoa học của nhà nông và hành trình đưa dược liệu bền vững đến với nông dân Lào Cai

Từ những cánh đồng Atiso xanh mướt đến rừng chè dây bạt ngàn, mô hình phát triển dược liệu của Công ty TNHH Một thành viên Traphaco Sa Pa đang góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và bảo tồn tri thức bản địa. Đặc biệt, nhà khoa học Đỗ Tiến Sỹ – Giám đốc công ty đã mang đến những giải pháp khoa học tiên tiến, mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp vùng cao, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

 Tỉ lệ che phủ rừng của xã Quy Mông đạt 73,3%

Quy Mông trồng rừng đạt 102% kế hoạch

Xã Quy Mông được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba xã Y Can, Quy Mông và Kiên Thành, có tổng diện tích 149,17 km2, diện tích rừng tự nhiên hơn 2.900 ha, tỷ lệ độ che phủ rừng của xã 73,3%. Năm 2025, công tác Quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng của xã Quy Mông đạt được nhiều kết quả tích cực.

fb yt zl tw