Vấn đề môi trường, đặc biệt là rác thải sinh hoạt, chất thải nông nghiệp và chăn nuôi đang nổi lên như “bài toán” không dễ giải ở nhiều địa phương trong tỉnh. Một mặt, sản xuất nông nghiệp vẫn là trụ đỡ quan trọng của kinh tế nông thôn; mặt khác, quá trình đô thị hóa, phát triển du lịch cộng đồng và các loại hình dịch vụ ngày càng gia tăng đã tạo áp lực lớn lên môi trường sống. Giải quyết giữa phát triển và bảo vệ môi trường trở thành yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, trong đó Hội Nông dân các cấp giữ vai trò nòng cốt.
Từ thực tiễn phường Trung Tâm - một không gian đặc thù của “nông nghiệp trong đô thị” với 46 tổ dân phố, gần 27.000 nhân khẩu, hệ thống mương suối đan xen khu dân cư, đồng ruộng có thể thấy rõ những thách thức chung mà nhiều vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh đang đối mặt.
Rác thải sinh hoạt phát sinh ngày càng nhiều; bao bì thuốc bảo vệ thực vật vẫn xuất hiện rải rác ven bờ ruộng, kênh mương; thói quen phân loại rác tại nguồn chưa đồng bộ; trong khi điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác thu gom, xử lý còn hạn chế. Những hình ảnh ấy không chỉ làm ảnh hưởng đến mỹ quan, mà còn tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, giảm chất lượng đất sản xuất và tác động trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.
Nhận diện rõ vấn đề, Hội Nông dân tỉnh xác định, bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, gắn chặt với tái cơ cấu nông nghiệp và phát triển du lịch bền vững. Từ tỉnh đến cơ sở, hội không chọn cách hoạt động sôi nổi, hình thức, mà kiên trì đi từ thay đổi nhận thức đến thay đổi hành vi của hội viên, nông dân - những chủ thể trực tiếp tạo ra rác thải, đồng thời cũng là người chịu tác động nhiều nhất từ ô nhiễm môi trường.
Tại phường Trung Tâm, cách làm của Hội Nông dân đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Từ việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền đưa nội dung bảo vệ môi trường vào nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đến vận động thành lập các tổ thu gom rác thải tại khu dân cư, tổ dân phố. Quan trọng hơn, các buổi sinh hoạt chi hội, hội nghị chuyên đề được tổ chức "đúng và trúng" - gắn với ruộng đồng, chuồng trại, vườn đồi của nông dân. Hội viên không chỉ được tuyên truyền, mà còn được hướng dẫn cụ thể cách phân loại rác tại nguồn, ủ phân vi sinh từ rác hữu cơ, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón. Khi thấy rõ lợi ích kinh tế - giảm chi phí đầu vào, cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng... người dân đã tự nguyện thay đổi cách làm, bảo vệ môi trường trở thành thói quen hằng ngày.
Không chỉ ở phường Trung Tâm, tại xã Tân Lĩnh, công tác bảo vệ môi trường được Hội Nông dân địa phương gắn chặt với mục tiêu bảo đảm an toàn thực phẩm và phát triển nông nghiệp bền vững. Một trong những hoạt động nổi bật là hướng dẫn hội viên tự chế thuốc trừ sâu sinh học từ những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, góp phần giảm thiểu tác hại của thuốc bảo vệ thực vật hóa học đối với môi trường và sức khỏe người dân.
Chia sẻ từ thực tế sản xuất, chị Tăng Thị Đàm, hội viên nông dân xã Tân Lĩnh cho biết: “Trước đây, gia đình tôi chủ yếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học để trừ sâu cho cây trồng. Sau một thời gian, tôi nhận thấy đất bị chai cứng, năng suất giảm rõ rệt. Từ khi được Hội Nông dân hướng dẫn tự chế thuốc trừ sâu sinh học từ ớt, gừng, tỏi, thuốc lào và rượu, cây trồng ít sâu bệnh hơn, đất cũng tơi xốp, màu mỡ trở lại”. Các nguyên liệu tự nhiên được phối trộn, ủ lên men đã tạo ra dung dịch trừ sâu sinh học an toàn, hiệu quả, thân thiện với môi trường.
Từ những mô hình điểm như vậy, phong trào bảo vệ môi trường trong nông dân đã và đang lan tỏa rộng khắp toàn tỉnh. Chỉ tính trong nhiệm kỳ qua, Hội Nông dân các cấp đã thành lập mới 158 mô hình “Thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi, nhà tiêu hợp vệ sinh”; xây dựng 1.868 mô hình bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế - xã hội và thích ứng với biến đổi khí hậu, đạt 154% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Cùng với đó, 187 tuyến đường “Sáng - xanh - sạch - đẹp”, 227 tuyến đường “Nông dân tự quản”, 55 tuyến đường "Thắp sáng đường quê" được hình thành, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao ý thức cộng đồng trong giữ gìn môi trường sống.
Đặc biệt, việc triển khai hiệu quả hai dự án “Thu gom và xử lý rác thải góp phần phát triển du lịch bền vững” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia tại xã Nghĩa Đô và Bắc Hà cho thấy cách tiếp cận bài bản, dài hơi. Thông qua dự án, nhiều hộ nông dân được hỗ trợ đất sản xuất, tạo sinh kế, việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống. Môi trường sạch hơn đã trở thành “đòn bẩy mềm” thúc đẩy du lịch cộng đồng phát triển, giữ chân du khách và nâng cao giá trị bản địa.
Thực tiễn từ cơ sở khẳng định: bảo vệ môi trường không thể là việc làm mang tính phong trào hay trông chờ vào đầu tư lớn, mà trước hết bắt đầu từ sự đồng thuận của người dân. Khi nông dân hiểu rằng môi trường sạch gắn trực tiếp với năng suất ruộng đồng, với sức khỏe gia đình và cơ hội phát triển du lịch, thì việc phân loại rác, không xả thải bừa bãi không còn là “nhiệm vụ được giao”, mà trở thành nhu cầu từ bản thân. Ở đó, Hội Nông dân thực sự đóng vai trò “cầu nối” giữa chủ trương của Đảng, chính quyền với từng hộ gia đình.
Trong thời gian tới, “bài toán” rác thải ở Lào Cai vẫn còn phải tìm lời giải. Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, cần nhân rộng các mô hình hiệu quả; có cơ chế hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị, bảo hộ lao động cho các tổ thu gom rác thải ở cơ sở; tăng cường phối hợp liên ngành trong kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về môi trường. Đồng thời, khuyến khích phát triển mạnh nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, coi rác thải hữu cơ là tài nguyên, gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trình bày: Thủy Thanh