Việt Nam đa sắc: Tranh dân gian Đông Hồ - di sản văn hóa độc đáo của dân tộc

Tranh dân gian Đông Hồ là ­một trong bốn dòng tranh dân gian đặc sắc của Việt Nam (bên cạnh tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng, tranh làng Sình).

Với những giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo, tranh dân gian Đông Hồ trong nhiều thế kỷ qua đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người dân, đi vào văn chương, thi ca, nhạc, họa, tạo nên nét bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam.

Trong xã hội truyền thống, tranh dân gian Đông Hồ có sức sống lâu bền bởi phản ánh sinh động cuộc sống bình dị của người nông dân nơi thôn dã. Hình ảnh những đàn gà, đàn lợn, đám cưới chuột, những thiếu nữ hứng dừa, các bộ tranh tố nữ, tứ quý, tứ bình… thể hiện đậm nét phong tục, tập quán, lễ hội, đình đám, văn hóa, con người Việt Nam.

Học sinh tham quan phòng tranh dân gian Đông Hồ.

Học sinh tham quan phòng tranh dân gian Đông Hồ.

Trong xã hội đương đại, tranh dân gian Đông Hồ vẫn được treo trang trọng trong các phòng khách, công sở, khách sạn, văn phòng, được du khách nước ngoài ưa chuộng, được các nhà nghiên cứu mỹ thuật quan tâm tìm hiểu.

Có thể tóm lược những giá trị tiêu biểu nhất của tranh dân gian Đông Hồ như sau:

Một là, đây là dòng tranh có lịch sử phát triển rất lâu đời. Theo các nguồn sử liệu và công trình nghiên cứu, nghề tranh dân gian đã xuất hiện ở làng Đông Hồ từ thế kỷ XVI. Gia phả dòng họ Nguyễn Đăng cho biết họ đã hành nghề ở đây được 20 đời, tức là khoảng trên dưới 500 năm. Cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh, có nhiều nghệ nhân giỏi danh tiếng vang xa khắp vùng.

Hai là, tranh dân gian Đông Hồ đáp ứng được nhiều chức năng xã hội khác nhau, từ tín ngưỡng, tâm linh, lịch sử đến giáo dục, phản ánh phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt… Chẳng hạn, tranh thờ cúng đáp ứng nhu cầu tâm linh (Ngũ hổ, Bạch hổ, Thập điện, Quan Âm, Phật Tổ...); tranh lịch sử giáo dục truyền thống, ca ngợi anh hùng dân tộc (Phù Đổng Thiên Vương, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung...); tranh chúc tụng đáp ứng nhu cầu hướng tới những điều may mắn, tốt lành (Đại cát, Vinh hoa, Phú quý, Gà đàn, Lợn đàn…); tranh sinh hoạt phản ánh phong tục, tập quán, lễ hội, cuộc sống thường ngày của người dân (Đấu vật, Đu xuân, Hứng dừa, Đánh ghen, Đám cưới chuột, Thầy đồ cóc…); tranh phong cảnh ca ngợi thiên nhiên, đất nước, con người, những thú chơi tao nhã (Mai - Lan - Cúc - Trúc, Xuân - Hạ - Thu - Đông, tranh Tố nữ…); tranh truyện đề cao đạo đức làm người, chính nghĩa thắng gian tà (Thạch Sanh, Phương Hoa, Truyện Kiều, Phạm Tải Ngọc Hoa…).

Người làm tranh dân gian Đông Hồ đục ván khắc gỗ để in tranh.

Người làm tranh dân gian Đông Hồ đục ván khắc gỗ để in tranh.

Ba là, tranh Đông Hồ chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu sắc, những ý nghĩa nhân sinh sâu xa. Trước hết, đó là những ước mơ, khát vọng từ những điều bình thường, giản dị nhất tới những điều thiêng liêng, cao quý nhất, như cầu mong mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, hạnh phúc đến những quan niệm nho giáo về đạo lý, lẽ sống ở đời. Tranh Đông Hồ rất chú trọng giáo dục truyền thống văn hóa, tinh thần thượng võ, ý chí quật cường của cha ông trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Tranh Đông Hồ cũng luôn đề cao truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tôn vinh người hiển đạt của văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, tranh dân gian Đông Hồ có tính giáo huấn sâu sắc, luôn đả phá những thói hư, tật xấu, đề cao những giá trị nhân văn, lên án tầng lớp thống trị hoặc các thế lực ngoại xâm.

Bốn là, tranh dân gian Đông Hồ có giá trị nghệ thuật độc đáo với những thủ pháp thể hiện mang đậm chất dân gian. Các bức tranh toát lên những đặc trưng thẩm mỹ và quan niệm nghệ thuật thuần phác của người nghệ nhân dân gian. Đó là nghệ thuật khắc họa không gian theo lối ước lệ, tượng trưng, mà không cần tuân thủ luật viễn - cận, tối - sáng như trong mỹ thuật hiện đại. Đường nét trong tranh Đông Hồ thiên về đơn giản, to đậm, nhưng cô đọng, chắc khỏe, có xu hướng cách điệu và trang trí hơn là tả thực. Chính những điều đó tạo nên nét đặc sắc của dòng tranh này.

Năm là, tranh Đông Hồ được làm từ những chất liệu gần gũi với thiên nhiên. Giấy in được làm từ giấy dó quét điệp, còn gọi là giấy điệp. Bột điệp tạo cho nền giấy một màu trắng sáng trong, lấp lánh, tôn màu khi in, có ưu điểm là nhẹ, mỏng, dai, dễ hút màu, chống được vi khuẩn, mối mọt và rất bền. Các màu trong tranh đều được làm từ nguyên liệu thiên nhiên như than lá tre, lá chàm, hoa hòe, hạt dành dành, gỗ vang, sỏi son..., tạo cho tranh Đông Hồ một phong cách riêng, khác lạ, mang đậm chất dân gian.

Sáu là, tranh Đông Hồ có kỹ thuật chế tác độc đáo, là loại tranh khắc gỗ (hay tranh in mộc bản). Tranh được in bằng ván khắc theo lối thủ công, theo kiểu xấp ván chứ không phải ngửa ván như một số dòng tranh dân gian các nước.

Tranh dân gian Đông Hồ vừa chân chất, gần gũi, vừa sâu sắc, triết lý, được lưu truyền từ đời này qua đời khác, đến nay đã trở thành một di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Trong cuộc sống đương đại, tranh dân gian Đông Hồ vẫn có những đóng góp vào sự phát triển chung của mỹ thuật Việt Nam, cung cấp những chủ đề, môtip, hình thức thể hiện và tạo nguồn cảm hứng cho các nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ trẻ.

Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, hiện nay, nghề tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một rất cao. Do vậy, bảo vệ, giữ gìn và phát huy nghề làm tranh dân gian Đông Hồ với tư cách là một di sản quý của văn hóa dân tộc đang đặt ra vô cùng cấp thiết.

Báo Quân đội nhân dân

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Trưởng thành dưới ánh đèn sân khấu

Trưởng thành dưới ánh đèn sân khấu

Ánh đèn sân khấu không chỉ là nơi thể hiện tài năng, mà còn là môi trường rèn luyện bản lĩnh và kỹ năng cho sinh viên nghệ thuật. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, sinh viên Khoa Văn hóa - Nghệ thuật, Trường Cao đẳng Lào Cai đã có cơ hội biểu diễn trên nhiều sân khấu thực tế và tham gia các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp. Đây là chiến lược đào tạo của nhà trường, nhằm rèn luyện kỹ năng biểu diễn và giúp sinh viên từng bước trưởng thành trên con đường nghệ thuật.

Bác Hồ trong cảm xúc mỹ thuật của họa sĩ Nguyễn Đình Thi

Bác Hồ trong cảm xúc mỹ thuật của họa sĩ Nguyễn Đình Thi

Hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh - cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người - luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong sáng tác nghệ thuật. Với họa sĩ Nguyễn Đình Thi, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên Bái (trước sáp nhập), mỗi tác phẩm về Bác đều được thể hiện bằng những nét vẽ chân thực, giàu cảm xúc, gửi gắm lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho văn học, nghệ thuật

Huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho văn học, nghệ thuật

Văn học, nghệ thuật (VHNT) là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi sự đầu tư lâu dài, không chỉ về trí tuệ và thời gian, mà còn cần nguồn lực vật chất để nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo. Trong bối cảnh nguồn kinh phí nhà nước còn hạn chế, việc huy động nguồn lực xã hội - từ cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân yêu văn học, nghệ thuật đang trở thành hướng đi tất yếu, góp phần thúc đẩy VHNT Lào Cai phát triển bền vững.

Khi phụ nữ viết về phụ nữ

Khi phụ nữ viết về phụ nữ

Phụ nữ là một nửa nhân loại, luôn có mặt trong mọi hoạt động của đời sống. Vì lẽ đó, khi ca ngợi cái đẹp, khi khắc họa con người hay dựng nên những lát cắt đời thường, hình ảnh người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận. Và khi phụ nữ viết về cùng là phụ nữ, họ sẽ dễ tìm thấy sợi dây đồng cảm, dễ đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Song, để có thể “thấu cảm” hay phản ánh một cách “đời” nhất, vẫn đòi hỏi vốn sống, sự trải nghiệm và một trái tim mở của người viết.

Bản giao hưởng hương vị Hà Nhì

Bản giao hưởng hương vị Hà Nhì

Ẩm thực của người Hà Nhì từ lâu đã được ví như một tấm gương phản chiếu đời sống lao động, phong tục tập quán và triết lý sống hài hòa với thiên nhiên. Nơi núi rừng Lào Cai, mỗi bữa cơm, mỗi món ăn đều chứa đựng hương vị đặc trưng, hồn cốt của bản làng, gói ghém cả sự dung dị, mộc mạc mà tinh tế.

Giữ truyền thống trong nhịp sống hiện đại

Giữ truyền thống trong nhịp sống hiện đại

Trong nhịp sống hiện đại, việc giữ gìn nét đẹp truyền thống của Trung thu chính là cách để chúng ta trao truyền giá trị văn hóa tốt đẹp cho thế hệ sau. Bởi Trung thu không chỉ là niềm vui tuổi thơ, mà còn là sợi dây gắn kết gia đình là minh chứng cho sự tiếp nối văn hóa từ quá khứ đến hiện tại.

fb yt zl tw