Phát huy tiềm năng, lợi thế cây chè

Chè là một trong những cây trồng chủ lực ở nhiều địa phương trên cả nước. Các sản phẩm chè Việt Nam không chỉ phục vụ tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu đến nhiều thị trường trên thế giới. Vì vậy, nhiều địa phương đang ưu tiên sản xuất chè theo hướng hữu cơ; ứng dụng chuyển đổi số, phát triển hạ tầng logistics để kết nối giữa sản xuất, chế biến, bảo quản và phát triển thị trường tiêu thụ các sản phẩm chè…

Hiện nay, diện tích chè cả nước là hơn 120 nghìn ha, kim ngạch xuất khẩu chè 5 tháng năm 2023 đạt 65 triệu USD. Theo thống kê, diện tích chè kinh doanh thời gian qua luôn ổn định với 110 nghìn ha, năng suất tăng mạnh từ 7,47 tấn/ha lên 9,75 tấn/ha. Trong hoạt động chế biến một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến hiện đại.

Mặt khác, các doanh nghiệp cũng sản xuất theo hướng đa dạng hóa sản phẩm cho nên giá trị từng bước được nâng cao. Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách từ cấp Trung ương đến địa phương ban hành nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ chè; các sản phẩm làm từ cây chè đang ngày càng đa dạng và phong phú, bảo đảm sản lượng và chất lượng, phục vụ cho nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Bên cạnh việc phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tại các vùng chè chủ lực đã tiếp cận, phát triển hình thức du lịch trải nghiệm, bước đầu đã có những tín hiệu rất tích cực như: Vùng chè đặc sản Tân Cương, Shan tuyết tỉnh Hà Giang, Shan tuyết Suối Giàng, đảo chè Thanh An, huyện Thanh Chương (Nghệ An) và các đồi chè Tâm Châu tỉnh Lâm Đồng, Long Cốc (Phú Thọ), Mộc Châu (Sơn La), Linh Dương (Lào Cai), Tân Trào (Tuyên Quang), Hương Sơn (Hà Tĩnh)...

Việc phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tại các vùng chè chủ lực đã tiếp cận, phát triển hình thức du lịch trải nghiệm, bước đầu đã có những tín hiệu rất tích cực.

Trong tổ chức và liên kết sản xuất, Việt Nam xây dựng hai chuỗi giá trị sản phẩm chè chủ yếu là chuỗi giá trị sản phẩm chè đen (chủ yếu cho xuất khẩu) và chuỗi giá trị sản phẩm chè xanh (phục vụ trong nước và xuất khẩu).

Trên thực tế, việc sản xuất chè ở Việt Nam còn nhiều khó khăn như:

Áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cũng như sản xuất theo hướng hữu cơ đã được triển khai từ nhiều năm qua nhưng đến nay vẫn đạt tỷ lệ còn thấp; quản lý chất lượng giống và các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây chè ở một số địa phương còn lỏng lẻo, chế tài xử lý còn nhiều khó khăn; sản xuất chè theo nông hộ chiếm gần 65% về diện tích, quy mô khoảng 0,2 ha/hộ; tình trạng thu gom nguyên liệu qua nhiều cấp làm tăng giá nguyên liệu đầu vào, kéo dài thời gian bảo quản, làm giảm chất lượng nguyên liệu, tăng chi phí đầu tư.

Ngoài ra, cả nước có khoảng 257 doanh nghiệp chế biến chè quy mô công nghiệp, tổng công suất theo thiết kế là 5,2 nghìn tấn búp tươi/ngày, sử dụng 220 nghìn lao động sản xuất ra gần 200 nghìn tấn sản phẩm mỗi năm. Tuy nhiên, số nhà máy được trang bị đồng bộ, máy móc thiết bị tốt, bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật chỉ chiếm 20%; số nhà máy trung bình là 60%; số cơ sở chế biến chắp vá, không bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật của quá trình chế biến chè là 20%...

Với mục tiêu phát triển ngành chè bền vững, theo hướng hiện đại, đồng bộ, sản xuất hàng hóa, các sản phẩm đa dạng có chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm mang lại giá trị gia tăng cao, nâng cao thu nhập cho người sản xuất và kinh doanh.

Mục tiêu đến năm 2030, diện tích trồng chè của Việt Nam đạt từ 135 đến 140 nghìn ha; phấn đấu đến năm 2025 diện tích chè được chứng nhận an toàn lên 55% và đến năm 2030 khoảng 75%.

Để làm được điều đó, các bộ, ngành, địa phương cần khuyến khích và tạo điều kiện tập trung đất đai hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn; ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông tại các vùng sản xuất chè; xây dựng thương hiệu, quảng bá các sản phẩm du lịch nông nghiệp tại vùng chè; thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển vùng chè chủ lực gắn với du lịch nông nghiệp sinh thái;

Đẩy mạnh sản xuất chè theo hướng an toàn; khuyến khích nhân dân sản xuất chè ứng dụng công nghệ cao, sinh học, sản xuất nông nghiệp hữu cơ; hỗ trợ nhân dân liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm chè; đa dạng hóa sản phẩm, chú trọng tăng nhanh tỷ trọng những sản phẩm có giá trị cao và sản phẩm mới…

Theo Báo Nhân Dân

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Siết chặt kiểm soát, đảm bảo an toàn thị trường cuối năm

Siết chặt kiểm soát, đảm bảo an toàn thị trường cuối năm

Nhằm xây dựng hình ảnh du lịch Sa Pa văn minh, thân thiện, chuyên nghiệp, để lại ấn tượng tốt đẹp cho du khách, công tác nắm bắt thị trường, kiểm tra, kiểm soát các cơ sở kinh doanh thực hiện đúng quy định pháp luật được đẩy mạnh, đặc biệt vào các dịp cao điểm cuối năm, bao gồm Tết Dương lịch, lễ Giáng sinh và các lễ hội mùa đông tại Sa Pa.

Giải bài toán thoát nghèo ở Ngải Trồ

Giải bài toán thoát nghèo ở Ngải Trồ

Nằm ở khu vực địa hình chia cắt, giao thông cách trở, thôn Ngải Trồ, xã Dền Sáng từng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Thế nhưng, bằng tinh thần bền bỉ và ý chí vượt khó, đồng bào nơi đây đang nỗ lực khai thác tiềm năng của địa phương để giải bài toán thoát nghèo.

Những giải pháp để tăng nguồn thu ngân sách ở xã Khao Mang

Những giải pháp để tăng nguồn thu ngân sách ở xã Khao Mang

Trong điều kiện là xã vùng cao còn nhiều khó khăn, nguồn thu ngân sách hạn chế, việc chủ động tìm kiếm và triển khai các giải pháp tăng thu đang là nhiệm vụ quan trọng của cấp ủy, chính quyền xã Khao Mang. Bằng cách khai thác hợp lý tiềm năng, thế mạnh địa phương, đồng thời siết chặt quản lý và nuôi dưỡng nguồn thu, Khao Mang đang từng bước tạo chuyển biến tích cực trong cân đối ngân sách, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.

Phố trong rừng

Phố trong rừng

Giữa mênh mông đại ngàn, nơi mây trời ôm ấp những triền đồi xanh thẳm của xã Mỏ Vàng, một sự chuyển mình ngoạn mục đang diễn ra tại thôn Tặng Chan. Xen lẫn giữa những rừng quế, nhiều ngôi nhà cao tầng, khang trang mọc lên san sát, minh chứng cho ý chí vươn lên của người dân nơi đây.

Nông nghiệp xanh góp phần nâng cao giá trị nông sản, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Lào Cai hướng tới nền nông nghiệp xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động sâu rộng đến sản xuất nông nghiệp, yêu cầu chuyển đổi sang mô hình canh tác xanh, phát thải thấp không còn là xu hướng mà đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết. 

Kênh tín dụng thiết thực của hội viên nông dân xã Xuân Ái

Kênh tín dụng thiết thực của hội viên nông dân xã Xuân Ái

Những năm qua, Quỹ Hỗ trợ nông dân đã trở thành kênh tín dụng thiết thực, tiếp sức cho hội viên nông dân xã Xuân Ái đầu tư sản xuất, phát triển kinh doanh, tạo việc làm và từng bước nâng cao thu nhập. Nhờ nguồn vốn này, nhiều hộ nông dân mạnh dạn mở rộng các mô hình chăn nuôi, trồng trọt, phát triển rừng kinh tế và liên kết theo chuỗi giá trị, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội tại địa phương.

Khoảng trống thú y viên cơ sở sau sáp nhập: Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn quản lý

Khoảng trống thú y viên cơ sở sau sáp nhập: Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn quản lý

Sắp xếp đơn vị hành chính và triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp là chủ trương lớn nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý. Tuy nhiên, thực tiễn công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi thời gian qua cho thấy, nhiều vấn đề đang phát sinh tại cấp xã, phường, nơi giữ vai trò tuyến đầu trong kiểm soát dịch bệnh.

Xã Bảo Yên đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn

Xã Bảo Yên đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn

Sau khi thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính, xã Bảo Yên đã mở rộng không gian phát triển với nhiều tiềm năng và lợi thế. Đặc biệt, các lĩnh vực nông - lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch được xác định là mũi nhọn, xã tập trung thu hút đầu tư nhằm tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới.

fb yt zl tw