LCĐT - Ðể bù đắp diện tích rừng phải chuyển đổi sang mục đích khác, như phục vụ xây dựng các dự án thủy điện, thủy lợi, khai thác khoáng sản, khu du lịch nghỉ dưỡng, các công trình phúc lợi công cộng… tỉnh tổ chức trồng rừng thay thế bằng nguồn kinh phí thu từ các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.
![]() |
Kiểm tra diện tích rừng trồng thay thế tại huyện Bát Xát. |
Chương trình trồng rừng thay thế tại tỉnh Lào Cai được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, từ năm 2006 đến trước ngày 1/7/2013, khi Thông tư số 24 ngày 6/5/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác được ban hành. Toàn tỉnh có 69 dự án thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp, với tổng diện tích hơn 1.080 ha. Tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành và chính quyền địa phương có dự án chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác thực hiện thu hồi, bồi thường rừng; chuyển đổi mục đích rừng đảm bảo đúng quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Số tiền đã thu, nộp từ các dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng rừng bao gồm: Kinh phí bồi thường giá trị lâm sản và đầu tư bảo vệ, trồng rừng, thuế tài nguyên và kinh phí trồng lại rừng. Hằng năm, số kinh phí trên đã được lồng ghép vào nguồn ngân sách tỉnh để đầu tư bảo vệ và phát triển rừng. Việc trồng lại rừng đảm bảo diện tích rừng trồng lại tối thiểu bằng diện tích rừng thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng sang mục đích khác.
Trong giai đoạn 2, thực hiện quy định tại Thông tư số 24 ngày 6/5/2013; Thông tư số 26 ngày 29/7/2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết năm 2017, tỉnh đã phê duyệt 69 phương án và văn bản chấp thuận nộp tiền trồng rừng thay thế với tổng diện tích 1.022 ha, tổng kinh phí gần 51.500 tỷ đồng. Trong đó có 10 phương án tự trồng rừng (trên 234 ha, kinh phí hơn 11 tỷ đồng) và 59 phương án nộp tiền về Quỹ Bảo vệ phát triển rừng tỉnh (743 ha, kinh phí trên 40 tỷ đồng).
Nhờ sự vận dụng linh hoạt chính sách, các phương án tự trồng rừng đã thực hiện vượt kế hoạch đề ra. Theo phê duyệt có 10 phương án tự trồng rừng, diện tích trên 234 ha, các chủ đầu tư đã trồng được 768 ha. Với những phương án chấp thuận nộp tiền trồng rừng thay thế về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng, tỉnh đã trồng được hơn 445 ha. Như vậy, tổng diện tích rừng đã trồng thay thế là 1.213 ha.
Là một trong những địa phương thực hiện tốt chương trình trồng rừng thay thế, ngay sau khi kế hoạch được ban hành, huyện Bát Xát đã vào cuộc tích cực, rà soát quỹ đất, tổ chức họp dân, hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng và chăm sóc rừng. Ông Nguyễn Văn Đoàn Luật, Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Bát Xát cho biết: Thực hiện dự án trồng rừng thay thế, huyện triển khai trồng 2 loại rừng, gồm rừng sản xuất và rừng phòng hộ với diện tích 34 ha tại xã Dền Sáng và xã Phìn Ngan. Chủ trương nhà nước đầu tư cây giống, phân bón, hỗ trợ công trồng và chăm sóc trong 7 năm đã tạo được niềm tin cho người dân, nên tiến độ trồng rừng thực hiện nhanh. Cơ cấu cây trồng phù hợp, chất lượng cây giống được tuyển chọn, diện tích rừng đã trồng được chăm sóc và bảo vệ tốt, tỷ lệ cây sống đạt trên 75%.
Tuy nhiên, công tác trồng rừng thay thế trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế. Ông Vũ Hồng Điệp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh cho biết: Một số phương án trồng rừng thay thế được phê duyệt vào cuối năm (sau tháng 7) nên chưa chuẩn bị được đất đai, vật tư, cây giống, phải chuyển sang năm sau. Một số chủ đầu tư dự án chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang nộp tiền còn chậm. Chưa có cơ chế, chính sách về trồng rừng thay thế đối với các dự án sử dụng ngân sách nhà nước trong lập dự toán đầu tư. Các dự án phục vụ mục đích công cộng, công trình phúc lợi khi thực hiện các quy định về trồng rừng thay thế, nguồn vốn bố trí chậm hoặc không bố trí được đã ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng thay thế.
Để việc trồng rừng thay thế thuận lợi và mang lại hiệu quả cao, cần có sự vào cuộc quyết liệt, sự phối hợp chặt chẽ của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp. Bên cạnh đó, các địa phương cần chủ động lựa chọn những loại cây có giá trị kinh tế cao, cây đa mục đích, cây gỗ lớn phù hợp với thổ nhưỡng của từng vùng. Đây sẽ là hướng đi mới góp phần nâng cao đời sống cho người dân, làm cơ sở để giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới.