Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện đang có khoảng 1.450 gia đình quân nhân hiếm muộn trong toàn quân và tình hình này đang tiếp tục có xu hướng gia tăng nếu không có những sự can thiệp, hỗ trợ kịp thời.
Đó là thông tin vừa được Đại tá Nguyễn Phương Hồng, Chánh văn phòng Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em của Bộ Quốc phòng đưa ra trong cuộc hội thảo vừa diễn ra sáng 14-12 với chuyên đề dân số và hỗ trợ sinh sản gia đình quân nhân hiếm muộn.
Có những nỗi buồn khó gọi thành tên
Từ ngàn đời nay, với mọi gia đình, con cái luôn là tài sản vô giá, là ước mơ lớn của mọi cặp vợ chồng và cũng là niềm tin, chắt chiu yêu thương nhất. Tuy nhiên vấn đề vô sinh, hiếm muộn đang ngày càng tăng cao và phức tạp hơn trong xã hội hiện đại. Theo Đại tá Nguyễn Phương Hồng, nước ta đang có khoảng 7-10% số cặp vợ chồng không có khả năng sinh con nếu không có sự can thiệp y tế. Trong đó, tỷ lệ này đang có xu hướng tăng lên trong toàn quân khi đã có gần 1.500 ca hiếm muộn được phát hiện.
Các đơn vị có số cặp vợ chồng hiếm muộn cao là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng 202 cặp; Quân chủng Phòng không - Không quân 193 cặp; Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng 171 cặp; Quân khu 9 là 90 cặp…
Đại tá Nguyễn ích Hạnh, Phó chủ nhiệm Chính trị Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng cho biết, một trong những lý do khiến cho tổng cục có số lượng ca hiếm muộn, vô sinh nhiều như vậy bởi đặc thù công việc của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên trong ngành. Họ thường xuyên phải làm việc trong các môi trường độc hại như sản xuất, bảo quản vũ khí, khí tài, hóa chất. Đồng thời các nhà máy quốc phòng hầu hết lại nằm ở các vùng miền núi, xa xôi, điều kiện sinh hoạt và chăm sóc sức khỏe còn nhiều hạn chế. Thêm nữa là đối tượng nữ quân nhân, công nhân viên quốc phòng trong các nhà máy, xí nghiệp lại khá đông và họ chính là những người dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động môi trường dẫn tới tình trạng vô sinh.
Đại tá Nguyễn Trung Long, Chủ nhiệm Quân y, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng chia sẻ: Bộ đội Biên phòng do đặc thù phải đóng quân ở những vùng biên giới, hải đảo xa xôi, điều kiện sống và ăn ở thiếu thốn, chịu tác động nhiều của thời tiết khắc nghiệt, các mỏ khoáng chất, kho bom đạn cũ… nên tỷ lệ hiếm muộn là khá cao. Bên cạnh những cán bộ, chiến sĩ vô sinh nguyên phát (gần 100 cặp) thì cũng có những đồng chí do đóng quân ở những tuyến đồn nằm trong vùng phóng xạ hay hóa chất nên đã bị vô sinh thứ phát (hơn 60 cặp) … Đáng lưu ý số cán bộ, chiến sĩ có thời gian công tác hơn 5 năm ở các vùng biên giới, hải đảo chiếm tới 1/2 quân số nên họ ít nhiều chịu ảnh hưởng của điều kiện sống xung quanh.
Phó giáo sư, Tiến sĩ, Đại tá Quản Hoàng Lâm, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Phôi (Học viện Quân y) nhấn mạnh, tình trạng hiếm muộn, vô sinh trở nên phức tạp hơn một phần bởi vì tính nhạy cảm của vấn đề. Không ít gia đình quân nhân ái ngại, giấu giếm tình trạng và không có sự tìm hiểu, đề nghị can thiệp, hỗ trợ kịp thời để khắc phục hoàn cảnh hiếm muộn của mình. Trong 4 năm từ 2009 đến hết 2012, Trung tâm Công nghệ Phôi đã tiếp nhận khám, điều trị cho hơn 9000 lượt ca hiếm muộn nhưng tỷ lệ quân nhân chỉ chiếm khoảng 1000. Nhiều cặp vợ chồng quân nhân chọn giải pháp thực hiện can thiệp y tế của hệ thống dân sự như vào Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ hoặc có thể đưa ra nước ngoài điều trị. Tuy nhiên có thể khẳng định, hiện nay Trung tâm Công nghệ Phôi đã tiến hành được nhiều kỹ thuật tiên tiến để can thiệp hỗ trợ sinh sản cho các cặp vợ chồng. Điều quan trọng là các cặp vợ chồng quân nhân hiếm muộn cần nhận thức rõ vấn đề hơn và đến trung tâm để được khám, tư vấn và có phương pháp điều trị thích hợp.
Thêm hy vọng được làm cha, làm mẹ
Tiến sĩ Quản Hoàng Lâm cho biết, năm 2012 là tròn 10 năm Trung tâm Công nghệ Phôi thực hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm với sự ra đời của hai cháu bé (tháng 8-2002). Chỉ tính riêng từ năm 2005 đến 2012, mỗi năm trung tâm khám và tư vấn, điều trị hơn 10.000 lượt người, làm 10.000 xét nghiệm, tiến hành thụ tinh ống nghiệm cho hơn 400 người an toàn đạt tỷ lệ chung gần 30%. Đặc biệt, đến nay đã có gần 2.500 cháu ra đời bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản, trong đó có hơn 1.200 cháu ra đời bằng thụ tinh trong ống nghiệm. Các kỹ thuật khó như chọc hút mào tinh, sinh thiết tinh hoàn, lọc rửa và lưu giữ tinh trùng, bơm tinh trùng vào tử cung, thụ tinh trong ống nghiệm… đều đã được các thầy thuốc của trung tâm thực hiện an toàn, hiệu quả.
Mặc dù quân đội đã có một đơn vị y tế có khả năng can thiệp hỗ trợ sinh sản nhưng vẫn còn những rào cản, khó khăn, hạn chế để các cặp vợ chồng quân nhân có thể tiếp cận và điều trị. Theo Tiến sĩ Quản Hoàng Lâm, chính nhận thức chưa đầy đủ của xã hội và bệnh nhân về vô sinh và điều trị vô sinh cùng với gánh nặng tâm lý gia đình, cộng đồng đã gây khó khăn, căng thẳng trong điều trị vô sinh. Sự giấu giếm, e ngại càng làm cho việc phát hiện, hỗ trợ sinh sản cho quân nhân không dễ dàng gì. Bên cạnh đó chính là khó khăn lớn về tài chính khi kinh phí điều trị cao (trung bình 1 ca thụ tinh ống nghiệm khoảng 40-50 triệu đồng), nhất là khi vô sinh chưa nằm trong danh mục được bảo hiểm y tế tại nước ta.
Đại tá Nguyễn Phương Hồng chia sẻ thêm rằng, có những đồng chí quân nhân thu nhập thấp, gia đình khó khăn, khi đi điều trị hỗ trợ sinh sản đã phải vay nợ hàng trăm triệu đồng mà hiện khó có khả năng chi trả. Thiếu tướng Thái Xuân Dương, Phó chính ủy Tổng cục Kỹ thuật có ý kiến, đối với những đơn vị đặc thù phải thường xuyên làm việc trong môi trường hóa chất, trang bị vũ khí độc hại… thì ngoài việc có phụ cấp ngành nghề, Bộ Quốc phòng cũng nên nghiên cứu hỗ trợ các gia đình quân nhân hiếm muộn tại các đơn vị đó. Đồng thời nên tổ chức khám sàng lọc trước sinh cho phụ nữ làm việc tại các nhà máy sản xuất quốc phòng để có sự can thiệp, hỗ trợ kịp thời. Đại tá Nguyễn Trung Long nói thêm, mặc dù rất đồng cảm với các đồng chí khó khăn tài chính khi điều trị hỗ trợ sinh sản nhưng các quy định và nguyên tắc hiện nay thì không có sự chia sẻ cần thiết. Vì vậy đôi khi các ngành chức năng trong đơn vị vẫn phải linh động xử lý tình huống theo một cách khác để có cách hỗ trợ kinh phí phần nào cho gia đình quân nhân…
Đối với Trung tâm Công nghệ Phôi, Tiến sĩ Quản Hoàng Lâm cho biết, đơn vị vẫn còn nhiều khó khăn khi ngoài bảo đảm huấn luyện, nghiên cứu khoa học còn triển khai nhiệm vụ khám, điều trị vô sinh. Trong khi đó cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ nhân viên và nguồn kinh phí hằng năm còn những hạn chế nhất định khiến cho công tác chăm sóc, hỗ trợ sinh sản cho gia đình quân nhân chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Có thể thấy, tỷ lệ gia đình quân nhân vô sinh, hiếm muộn trong toàn quân chưa phải là quá cao so với mặt bằng chung xã hội. Nhưng câu chuyện về ước mơ làm cha, làm mẹ của mọi cặp vợ chồng đều cháy bỏng và cao đẹp như nhau. Vì vậy, hơn bao giờ hết chúng ta cần thêm những sự đầu tư khoa học kỹ thuật và các chính sách hỗ trợ tài chính, động viên tinh thần, chia sẻ khó khăn để hạnh phúc cho mỗi gia đình quân nhân thực sự trọn vẹn hơn./.