Hiệu quả từ mô hình canh tác chè an toàn sinh học ở Bảo Yên

Sử dụng chế phẩm sinh học trong canh tác giúp người trồng chè huyện Bảo Yên tăng năng suất, nâng cao hiệu quả kinh tế và hướng tới nền sản xuất an toàn.

Những vườn chè của nông dân thôn Hàm Rồng, xã Việt Tiến luôn xanh tốt, búp ra tua tủa khiến nông dân vui mừng. Đây là kết quả bước đầu của việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong canh tác chè do Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện hướng dẫn nông dân sử dụng bắt đầu từ vụ chè năm nay. Có 2 loại chế phẩm sinh học dùng cho cây chè (dạng phân bón lá; chế phẩm trừ sâu bệnh), nhưng chủ yếu người dân sử dụng dạng phân bón lá để phun cho cây chè.

Che BY 227232.jpg
Hướng dẫn nông dân xã Việt Tiến sử dụng chế phẩm sinh học trên cây chè.

Là người đầu tiên ở thôn Hàm Rồng sử dụng chế phẩm sinh học phun cho cây chè, anh Lê Duy Hùng cho biết: Việc sử dụng chế phẩm sinh học trong canh tác chè mang đến nhiều lợi ích, đó là vườn chè xanh tốt, nhiều búp, sản lượng tăng 15 - 20% so với phương pháp canh tác thông thường. Chế phẩm sinh học dạng phân bón chủ yếu có thành phần từ đạm cá, rong biển và các vi sinh vật có lợi cho cây trồng, an toàn với sức khỏe con người và động vật. Chúng tôi không còn lo lắng khi phun cho cây chè sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân và người tiêu dùng. Việc sử dụng chế phẩm sinh học để phun cho cây chè rút ngắn thời gian thu hoạch giữa các lứa chè, chưa kể giá bán cao hơn so với chè canh tác bằng các sản phẩm phân bón, thuốc hóa học.

Nhờ canh tác bằng chế phẩm sinh học, vườn chè hơn 4 sào của gia đình anh Hùng có thể thu được 3 lứa búp/tháng, sản lượng khoảng 3 tạ búp/tháng. Trong khi đó, trước đây, diện tích này chỉ cho thu hoạch tối đa hơn 2 tạ chè búp tươi/tháng. Giá chè búp tươi canh tác sinh học bán với giá bình quân 13 - 15 nghìn đồng/kg, cao hơn 1 nghìn đồng/kg so với chè canh tác bằng phương pháp cũ. Có thời điểm, giá chè canh tác an toàn sinh học tại huyện Bảo Yên lên 18 nghìn đồng/kg.

Sau khi anh Hùng sử dụng chế phẩm sinh học để phun cho diện tích chè mang lại hiệu quả rõ rệt, nhiều hộ trong thôn cũng tìm hiểu và sử dụng theo. Đến nay, 16/22 hộ trồng chè ở thôn Hàm Rồng sử dụng chế phẩm sinh học để canh tác chè.

Chị Nguyễn Thị Đông, thôn Hàm Rồng cho biết: Chi phí cho chế phẩm sinh học để phun cho chè rẻ hơn thuốc hóa học, trung bình mỗi lượt phun chỉ khoảng 8 nghìn đồng/sào, giảm 4 nghìn đồng/sào so với thuốc hóa học. Việc phun chế phẩm này cũng không khác nhiều so với thuốc hóa học nên chúng tôi dễ áp dụng.

Không chỉ tại xã Việt Tiến, mà nhiều diện tích chè ở các xã Lương Sơn, Xuân Hòa… cũng được người dân chuyển từ phương pháp canh tác truyền thống sang sử dụng các chế phẩm sinh học.

Bà Hoàng Thị Kim Minh, khuyến nông viên xã Lương Sơn cho biết: Từ hộ đầu tiên ứng dụng chế phẩm sinh học, đến nay có 40 hộ trong xã sử dụng chế phẩm này để canh tác chè. Sau lứa thu hoạch đầu tiên, sản lượng búp tăng từ 20 - 30% đối với giống chè lai và tăng từ 5 - 10% đối với giống chè chất lượng cao. Mặc dù diện tích chè canh tác bằng chế phẩm sinh học chưa lớn (2,5 ha/158 ha), nhưng đây là kết quả bước đầu để mở rộng diện tích canh tác chè an toàn sinh học ở địa phương.

Che BY 227231.jpg
Vườn chè ở Việt Tiến xanh tốt do được sử dụng chế phẩm sinh học.

Theo đánh giá của Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bảo Yên, các diện tích canh tác bằng chế phẩm sinh học đều cho sản lượng chè búp tươi tăng từ 5 - 30% tùy giống chè. Với hiệu quả kinh tế và lợi ích về sức khỏe, bảo vệ môi trường, chế phẩm sinh học ngày càng chiếm được niềm tin của người trồng chè huyện Bảo Yên. Thời gian tới, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bảo Yên tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp, đơn vị trên địa bàn để hướng dẫn, hỗ trợ người trồng chè mở rộng diện tích canh tác bằng các chế phẩm sinh học, hướng đến sản xuất an toàn, hữu cơ, bền vững.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Cuộc cách mạng nông nghiệp ở Trạm Tấu

Cuộc cách mạng nông nghiệp ở Trạm Tấu

Nằm trong số 74 huyện nghèo của cả nước, Trạm Tấu từ lâu đã quen với những định danh như "vùng cao đặc biệt khó khăn". Thế nhưng, một cuộc cách mạng thầm lặng đang diễn ra trên những sườn núi, không phải bằng những dự án hoành tráng, mà bắt nguồn từ chính mảnh đất, từ việc đánh thức giá trị của những cây trồng bản địa.

Biến đất cằn thành vườn cây bạc tỷ

Biến đất cằn thành vườn cây bạc tỷ

Trên những mảnh nương, đồi trồng ngô, lúa bạc màu một thời, anh Lý Phụ Chìu ở thôn Tả Chải, xã Tả Phìn (thị xã Sa Pa) đã tìm ra hướng đi mới, phủ xanh đất cằn bằng mô hình trồng cây cảnh đem lại hiệu quả cao. Không chỉ là người tiên phong, anh còn truyền cảm hứng thay đổi tư duy phát triển kinh tế ở thôn.

Góp sức dân mở đường về đích nông thôn mới

Góp sức dân mở đường về đích nông thôn mới

Không chờ đợi nguồn lực từ cấp trên, nhiều hộ dân ở huyện Bảo Yên đã chủ động hiến đất, góp tiền, góp công làm đường giao thông nông thôn. Những tuyến đường bê tông sạch đẹp không chỉ làm thay đổi diện mạo nông thôn, mà còn mở ra cơ hội phát triển kinh tế bền vững.

Sắc màu no ấm ở thung lũng bản Sinh

Sắc màu no ấm ở thung lũng bản Sinh

Bản Sinh như một thung lũng thu nhỏ nằm cách trung tâm xã Lùng Vai, huyện Mường Khương khoảng 3 km. Nhờ tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chăm chỉ lao động, đồng bào các dân tộc ở bản Sinh có được cuộc sống no ấm, hạnh phúc.

190 học viên tham gia tập huấn nâng cao nghiệp vụ xây dựng nông thôn mới

190 học viên tham gia tập huấn nâng cao nghiệp vụ xây dựng nông thôn mới

Nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Văn phòng Điều phối các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Lào Cai phối hợp với Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ nông thôn mới năm 2025.

Xuân Thượng: Hành trình vượt nghèo và những đổi thay bền vững

Xuân Thượng: Hành trình vượt nghèo và những đổi thay bền vững

Từng là địa phương có tỷ lệ hộ nghèo khá cao nhưng với quyết tâm và sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, xã Xuân Thượng (huyện Bảo Yên) đã có những bước chuyển mình ngoạn mục. Từ con số 214 hộ nghèo vào năm 2021, chiếm hơn 21% tổng số hộ, đến nay xã chỉ còn 34 hộ nghèo, tương đương 3,36%. Tỷ lệ giảm nghèo bình quân đạt 17,77% mỗi năm là kết quả ấn tượng, minh chứng rõ nét cho sự bền bỉ và kiên trì trong công tác giảm nghèo tại địa phương.

Bắc Hà mùa quả ngọt

Bắc Hà mùa quả ngọt

Mùa này, mận chín rải rác khắp các xã, từ vùng thấp đến vùng cao. Trong những vườn mận, vườn đào, tiếng nói cười rộn ràng, nông dân đang hối hả, nhanh tay thu hoạch quả chín. Những quả đào hồng rực, quả mận tím đỏ lúc lỉu trong tán lá xanh mướt... mới thấy sự trù phú mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này. Từ trung tâm thị trấn Bắc Hà đến các xã Na Hối, Bản Phố, Thải Giàng Phố… đều đã bắt đầu vào vụ thu hoạch mận. Năm nay được mùa nên cây mận nào cũng sai quả.

Nâng cao chất lượng và tính bền vững của các chương trình mục tiêu quốc gia

Nâng cao chất lượng và tính bền vững của các chương trình mục tiêu quốc gia

Tại hội nghị tổng kết thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giai đoạn 2021 - 2025 diễn ra chiều 9/6, các đại biểu đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm, cách làm hay trong triển khai hiệu quả các chương trình tại địa phương, trong đó nhấn mạnh phải phát huy tốt vai trò chủ thể của người dân và huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội.

Đất đồi cho quả ngọt

Đất đồi cho quả ngọt

Trên những triền đất đồi dốc trước kia chỉ trồng ngô, sắn, đậu tương…, nhiều hộ dân vùng cao huyện Bát Xát đã đưa cây lê VH6 - giống cây ăn quả ôn đới hợp khí hậu, hợp thổ nhưỡng về trồng. Sự mạnh dạn chuyển đổi đã “đánh thức” tiềm năng đất đồi, mở ra hướng phát triển kinh tế hiệu quả, từng bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa và cho những mùa quả ngọt.

Cơ hội và thách thức của tín dụng xanh

Cơ hội và thách thức của tín dụng xanh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, việc phát triển tín dụng xanh không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là đòi hỏi cấp bách đối với Việt Nam. Ngành ngân hàng, với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn về tài chính xanh.

fb yt zl tw