“Chỉ cần bạn không dừng lại, không từ bỏ thì bước chân nhỏ bé hôm nay có thể đưa bạn đến ước mơ ngày mai. Tôi tin mọi đứa trẻ đều có thể đặt chân đến giảng đường nếu không từ bỏ”, Phùng Thị Thúy, cô gái dân tộc Mường đến từ thôn Nậm Giang 2 (xã Nậm Chạc, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai) vui vẻ tâm sự. Ẩn sau nụ cười tươi và ánh mắt sáng là cả một hành trình gian khó, kiên cường vươn lên từ nghèo khó để trở thành sinh viên của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

Lớn lên trong một gia đình dân tộc Mường duy nhất giữa xóm người Mông và Dao, tuổi thơ của Thúy gắn liền là những tháng ngày chật vật, thiếu thốn. Bố của Thúy tần tảo, vất vả làm đủ thứ nghề để nuôi em ăn học, khi thì làm thuê ở lò gạch, khi lại bốc vác để kiếm thêm thu nhập; mẹ làm nông, từng học rất giỏi nhưng phải nghỉ học từ lớp 9 vì gia đình quá nghèo.
“Mẹ tôi viết chữ còn đẹp hơn cả tôi bây giờ”, Thúy nói rồi mỉm cười đầy tiếc nuối.
Thuở nhỏ, Thúy chưa từng biết đến sinh nhật là gì. Mỗi lần được bạn bè trong xóm mời dự sinh nhật, cô gái nhỏ lại háo hức nhìn các bạn thổi nến, cắt bánh, rồi lặng lẽ ước ao một lần được như thế. Mãi khi học đến trung học cơ sở, Thúy mới nhớ được ngày sinh nhật của mình.
Biến cố ập đến khi Thuý học lớp 4, gia đình vỡ nợ, bố mẹ phải bán nhà và gánh thêm khoản nợ lớn. Gia đình Thúy chuyển đến một bản xa, sống trong căn nhà tạm. Trong ký ức của em, mùa đông tại "căn nhà mới" rất lạnh, gió không ngừng lùa vào qua từng khe nứa, nhiều đêm em mất ngủ, bố mẹ phải phủ bạt xung quanh giường... Sau đó bố mẹ gửi hai chị Thúy về nhà bà ngoại, song căn nhà của ngoại cũng không khá hơn.
“Có hôm mưa to, bà ngoại phải lấy áo mưa che trên màn để ba bà cháu ngủ. Nhưng cũng có những hôm mưa to quá, ba bà cháu đang ngủ, nước đổ ập xuống mặt... Cảm giác rất sợ hãi… ”, Thúy nhớ lại những ngày thơ ấu.
Cùng với đó, đường đến trường khá xa, bữa trưa Thúy mang theo cặp lồng cơm, có hôm chỉ có mì tôm, cũng có hôm có thêm quả trứng, vài ba miếng thịt… Mưa gió, các bạn được bố mẹ đón về, Thúy nhìn theo lòng không khỏi buồn, tủi thân. Nhưng rồi em cố gắng khắc phục khi thấy xung quanh vẫn còn nhiều bạn cũng hoàn cảnh như mình.
Khi lên trung học phổ thông, nghe các bạn nói vào trường nội trú sẽ được nuôi ăn ở miễn phí, Thúy quyết tâm theo học. Môi trường mới đã mở ra một thế giới khác cho cô gái nhỏ: Có bạn bè khắp nơi, không còn lo thức giấc vì dột mưa, được thầy cô dìu dắt, hun đúc ước mơ. Lần đầu tiên nghe bạn bè nói về đại học, Thúy tự hỏi: Liệu mình có thể không? Nhìn quanh, nhiều bạn bè cùng trang lứa đã nghỉ học sớm để lấy chồng, đi làm nương, tối về chăn lợn. Cô gái nhỏ không muốn cuộc sống của mình chỉ quanh quẩn như vậy.

Đặc biệt khi nghe lời tâm sự của bố: "Bố em chỉ học hết lớp 3, chỉ biết ít chữ, vì thế bố sẽ cố gắng để chăm lo con được học hành đến nơi đến chốn". Ngọn lửa quyết tâm trong Thúy cũng được thắp sáng thêm khi cô gái trẻ biết đến câu chuyện của chị Chảo Thị Yến, cô gái người Dao đầu tiên giành học bổng du học châu Âu.
“Chị Yến cũng xuất thân từ nghèo khó giống mình. Gia đình chị cũng chưa có ai đi học đại học. Nhưng chị đã nỗ lực có thể sang trời Âu để học. Chị Yến làm được, tại sao mình lại không làm được? Từ đó thôi thúc em quyết tâm phấn đấu thi đỗ một trường đại học tại Hà Nội… ”, Thúy nhớ lại.
Nhận được giấy báo trúng tuyển, cô gái nhỏ hò reo trong vui sướng: “Đỗ đại học rồi!”. Khi bố mẹ đi làm về biết tin cũng cảm thấy rất vui mừng, nhưng sau đó cũng bắt đầu lo lắng... Là người đầu tiên trong thôn đỗ đại học ở Hà Nội, Phùng Thị Thúy mang theo không chỉ khát vọng của bản thân, mà còn là niềm tin và kỳ vọng của cả bản làng.

“Một tháng sau đó, tôi phải nhập học, đóng 11 triệu, nhưng trong nhà chưa có 10 triệu, làm sao có tiền đi học. Tôi cảm thấy nhụt chí. Nhưng được bố mẹ động viên: ‘Con cứ yên tâm, bố mẹ sẽ cố gắng lo được’, tôi an tâm phần nào. Buổi tối trước khi lên đại học, nhà tôi có làm vài mâm cơm để mời các cô bác, họ hàng và bà con trong bản đến để ăn mừng và tạm biệt em lên Hà Nội học đại học.
Không ai bảo ai, bà con trong thôn cùng nhau góp từng đồng lẻ, chắt chiu từ công việc đồng áng, chăn trâu, để làm hành trang cho tôi bước vào giảng đường. Tôi nhớ lúc đó ông San dúi tiền vào tay tôi, dù ông tuổi đã cao, đi chăn trâu để trang trải cuộc sống. Một bác khác thủ thỉ động viên: "Lên Hà Nội, Thúy cố gắng học tập… bác mong sau này con bác cũng giống như Thúy… Sau buổi tối hôm đó, tôi càng cảm thấy biết ơn, trân trọng tình cảm của mọi người…”, Thúy chia sẻ.
Hành trình học đại học tại Hà Nội mở ra chuỗi những “lần đầu tiên” của cô gái nhỏ: Lần đầu đi thang máy, xem phim tại rạp, thấy những tòa nhà chọc trời, những ánh đèn rực rỡ về đêm. “Tôi còn nhớ lúc nằm trên xe khách, ánh sáng xuyên qua tấm rèm cửa, tôi hé rèm ra và choáng ngợp trước những tòa nhà cao tầng san sát, ánh đèn sáng cả đêm…, những điều này tôi chưa từng thấy ở thôn, bản. Tôi biết, mình đang bước vào một thế giới mới”, Thúy kể lại.


Tháng 1/2025, Thúy mong muốn tạo ra những giá trị cho cộng đồng, cô gái trẻ quyết định tạo ra kênh Tik Tok “Thúy trên bản” để chia sẻ cuộc sống ở vùng cao, những hoạt động đi hái rau rừng, chăm lợn để lan tỏa cho bạn bè ở đại học và những bạn ở dưới xuôi biết được cuộc sống ở trên vùng cao như thế nào, văn hóa vùng cao ra sao và chia sẻ cuộc sống tại ký túc xá, hay quãng thời gian sinh viên tươi đẹp… Đặc biệt, Thúy mong muốn cho những em nhỏ ở trên thôn, bản có thể nhìn thấy chị Thúy đi học đại học, tham gia những trải nghiệm vui vẻ như thế nào? Từ đó truyền cảm hứng cho các em theo đuổi giấc mơ đại học.
Song song với việc học, Thúy còn tổ chức nhiều hoạt động thiện nguyện, đáng nhớ nhất là chương trình “Nấu ăn cho em”. “Có em chưa từng biết đến xúc xích hay sợi bún. Nhìn ánh mắt háo hức của các bạn nhỏ, tôi như thấy lại chính mình ngày bé, cũng từng ao ước có một bữa ăn ngon. Tôi chỉ mong, những khoảnh khắc ấy sẽ tiếp thêm niềm tin và động lực cho các em nhỏ tiếp tục vươn lên,” Thúy chia sẻ.
Trong một chuyến đi thiện nguyện khác, Thúy từng gặp một cô gái dân tộc thiểu số, da rám nắng, cõng con nhỏ trên lưng… “Cô gái mới 18 tuổi, đã có ba con. Khoảnh khắc đó khiến tôi trăn trở rất nhiều. Tôi không muốn mình sống cuộc đời như thế. Tôi muốn được ra ngoài khám phá, học hỏi, trưởng thành để thay đổi cuộc đời mình, gia đình mình và cả thôn, bản của mình. Tôi luôn tâm niệm, chỉ cần bạn không dừng lại, không bỏ cuộc, thì bước chân nhỏ hôm nay sẽ đưa bạn đến giấc mơ ngày mai. Mọi đứa trẻ dù ở đâu đều có thể đặt chân tới giảng đường nếu không từ bỏ”, Thúy mỉm cười, ánh mắt rạng rỡ như chính hành trình mình đang đi.

“Có thể ai đó thất hứa với mình, nhưng bản thân mình không được phép thất hứa với chính mình”, cô gái dân tộc Mông Sùng Thị Phương (sinh viên năm 3, Học viện Báo chí và Tuyên truyền) chia sẻ khi kể về hành trình đi tìm tri thức, vượt lên số phận để trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.
Là con út trong một gia đình có sáu anh chị em ở thôn Tỉnh B, xã Xá Nhè (huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên), tuổi thơ của Phương là những ngày cơ cực khi mất cha từ sớm, một mình mẹ gồng gánh nuôi cả đàn con thơ. Ở vùng cao, sau khi chồng mất, nhiều người phụ nữ tái hôn, nhưng mẹ Phương đã chọn “ở vậy”, làm việc, chắt chiu từng đồng lo cho các con từng bữa ăn…
Dù mong mỏi các con đi học, nhưng cái nghèo luôn là rào cản. Các chị của Phương phải nghỉ học sớm từ lớp 1, lớp 2 để đi làm nương, làm rẫy phụ mẹ. Phương may mắn hơn khi năm 6 tuổi, em được đón vào làng trẻ em SOS Điện Biên Phủ, mái nhà thứ hai, nơi em được sống trong một gia đình nhỏ có 10 đứa trẻ và một “người mẹ” tận tụy chăm sóc.
“Nếu ở lại quê, tôi đã phải lấy chồng sớm như nhiều bạn cùng lứa. Nhưng nhờ được sống và học tập ở làng trẻ em SOS, tôi mới có cơ hội viết tiếp giấc mơ đến trường”, Phương xúc động kể.
Xa nhà từ nhỏ, cô gái không khỏi buồn tủi, năm 6 tuổi được anh rể đưa đến làng trẻ em SOS, Phương nghĩ mọi người sẽ quay lại đón mình. Nhưng từ đó, mỗi năm em được về nhà một lần thăm mẹ và các anh chị. “Những ngày đầu, tôi nhớ mẹ lắm. Nhìn các bạn có bố mẹ đưa đón, tôi tủi thân vô cùng. Tôi mất bố từ nhỏ, chưa từng cảm nhận được hơi ấm của cha. Mẹ thì sinh tôi muộn, giờ đã hơn 60 tuổi rồi, sức khỏe cũng yếu đi nhiều...”, Phương chia sẻ.
Dù xa mẹ và các anh chị, nhưng Phương luôn được mẹ dặn dò phải cố gắng học hành để có tương lai tươi sáng, không lấy chồng sớm như bao bạn bè cùng tuổi. Mẹ nuôi ở làng SOS cũng không quên nhắc em học tiếng Mông thật tốt để có thể trò chuyện, giúp đỡ mẹ nhiều hơn.

“Cho đến hiện tại, khi tâm sự với mọi người, các chị trong nhà cũng bày tỏ sự hối tiếc vì ngày xưa không có điều kiện đi học, bây giờ các chị muốn làm kinh tế cũng gặp nhiều khó khăn…. Mỗi lần về quê, thấy chị dâu không biết tiếng phổ thông, không biết chữ, dành hết thời gian để lao động, làm công việc nặng nhọc, rất vất vả, tôi cảm thấy thương chị vô cùng… Bản thân tôi đã có những trải nghiệm làm nương, trồng bắp từ năm lớp 6 khi phụ giúp mẹ. Tôi nhớ ngày đó, đường đồi núi rất dốc, tôi vừa đeo gùi trên lưng vừa cầm một túi gạo nặng và băng qua một cánh rừng…, vì mệt quá, giữa đường tôi đã bật khóc, mẹ phải an ủi, dỗ dành tôi để tiếp tục đi tiếp được…”, Phương bộc bạch.
Nói về hành trình theo đuổi giấc mơ đại học, Phương chia sẻ: “Tôi học tốt nhất là môn ngữ văn nên tôi quyết định thi tuyển vào ngành báo chí. Tôi cũng muốn trau dồi, rèn luyện khả năng giao tiếp, sự tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống… Trước khi thi đại học, có quãng thời gian tôi suy sụp tinh thần, cảm giác mọi thứ sụp đổ khi nghe tin anh trai mất… Nhưng nhờ thầy cô ở làng trẻ em SOS luôn bên cạnh, động viên, tôi mới dần vực dậy tinh thần. Từ đó, tôi tự nhủ phải mạnh mẽ hơn, phải biết dựa vào chính mình, không được gục ngã…".
"Nhận được giấy báo trúng tuyển Học viện Báo chí và Tuyên truyền, lúc đó sát ngày nhập học, tôi vừa bất ngờ vừa hạnh phúc. Không nghĩ là mình lại có thể đỗ đúng ngôi trường mơ ước... Ngày đầu xuống Hà Nội nhập học, tôi lúng túng, lo lắng vì không có người thân đi cùng. Nhìn các bạn có gia đình bên cạnh hỗ trợ, tôi cũng tủi thân lắm…”, Phương nhớ lại.

Nhưng vượt lên nỗi buồn và nỗi lo, Sùng Thị Phương vẫn giữ vững lựa chọn của mình. Cô miệt mài học tập với ước mơ trở thành một nhà báo tài năng, có tâm để sau này trở về làng, tiếp sức, truyền cảm hứng cho những em nhỏ người dân tộc thiểu số như mình.
“Trước đây tôi rất nhút nhát, ngại ngùng khi đưa ra ý kiến, quan điểm của mình... Giờ đây, tôi đã tự tin hơn, biết thể hiện cá tính, biết nói lên tiếng nói của mình. Tôi mong phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số được tiếp cận nhiều hơn với giáo dục, để mở rộng tương lai. Khi tốt nghiệp, có công việc ổn định, tôi sẽ quay trở lại làng trẻ em SOS để tiếp sức, hỗ trợ cho các em nhỏ dân tộc thiểu số vượt qua định kiến, vươn lên bằng tri thức và sự tử tế”.
Sống giản dị, chân thành, Sùng Thị Phương luôn nhắc mình không được quên ơn những người đã nâng bước em trên hành trình với những lời khuyên bổ ích: “Ăn đủ ba bữa một ngày, luôn biết cảm ơn và đối xử tử tế với mọi người. Có thể ai đó thất hứa với mình, nhưng bản thân mình không được phép thất hứa với chính mình”, Phương nói, ánh mắt rạng rỡ niềm tin.